|
Chàm
mèo
Chàm mèo, Chàm
lá to - Strobilanthes cusia (Nees)
Kuntze., thuộc họ Ô rô - Acanthaceae.
Mô tả:
Cây nhỏ lưu niên, cao 40-80cm (có khi đến 2m); thân nhẵn, phân nhánh
nhiều, phình lên ở các mấu. Lá mọc đối, thường mềm ỉu, hình
trái xoan hay bầu dục thon, dài 10-13cm, gân phụ 6-7 cặp, mép có răng
hay khía tai bèo, các lá cùng một đôi thường không bằng nhau. Hoa
mọc so le hay mọc đối, xếp thành bông ít hoa; các bông này lại
xếp thành chuỳ; lá bắc hình lá, nhẵn, lá bắc con hình sợi; đài
cao 1cm, các lá đài nhọn; tràng hoa màu lam đến tím, cuống dài
3-3,5cm, phía trên loe ra, có 5 thuỳ bằng nhau, nhị 4; bầu không lông.
Quả nang dài, không lông.
Mùa hoa quả
tháng 11-2.

Bộ
phận dùng:
Lá - Folium Strobilanthis Cusiae, thường
gọi là Mã lam; Bột chàm - Indigo
naluralis, thường gọi là Thanh đại.
Nơi
sống và thu hái: Cây mọc hoang ở các thung lũng ẩm ướt,
các núi đá và được trồng lấy cành lá để nhuộm màu xanh chàm.
Ở hầu hết các tỉnh vùng cao ở miền Bắc như Lào Cai, Lai Châu,
Sơn La, Hà Giang, Cao Bằng, Lạng Sơn, Bắc Thái, Hà Bắc đều có
trồng chàm mèo trong các vườn gia đình hay trên nương rẫy gần
nguồn nước, ở miền Nam cũng có trồng ở Bình Định. Người ta
trồng chàm mèo bằng cách vào tháng 3-4. Sau khi trồng được 6 tháng
đã có thể thu hái lá. Dùng lá tươi để chế bột chàm; lá tươi
ngâm nước ở 30oC trong 12 giờ cho lên men. Lọc men, lọc,
kiềm hoá bằng vôi và khuấy liên tục 4-5 giờ. Lọc gạn lấy
bột Chàm, ép kiệt nước, thái thành miếng, phơi trong mát đến
khô. Bột Chàm tốt phải chứa 60-70% indigotin.
Thành phần hoá
học:
Lá Chàm mèo chứa 0,4-1% indican. Khi thuỷ phân, indican cho indoxyl và
glucose. Khi bị oxy hoá, indoxyl cho indigotin. Indigotin có màu xanh lam
sẫm. Còn có indirubin.
Tính
vị, tác dụng: Chàm mèo và Thanh đại có vị đắng
nhạt. tính lạnh, có tác dụng thanh nhiệt, giải độc, mát máu,
tiêu ban mẩn, sưng viêm và cầm máu. Thanh đại tính hàn, như là
chàm và cũng tác dụng thanh nhiệt, tán uất, lương huyết, giải
độc. Người ta đã nghiên cứu tác dụng kháng nội tiết sinh
dục nữ, gây sẩy thai, gây tăng co bóp tử cung một cách nhịp nhàng.
Công
dụng, chỉ định và phối hợp: Chàm mèo được dùng
chữa trẻ em kinh sợ, cam nhiệt, sốt, sốt phát cuồng, sưng
amydgal, nôn mửa, thổ huyết, phụ nữ rong kinh, rong huyết. Ngày dùng
4-6g cao lá trộn thêm đường, hoặc dùng 1-4g bột Thanh đại với
nước. Dùng ngoài lấy cả cây Chàm mèo nấu cao đặc bôi chữa chàm
chốc viêm lợi chảy máu mồm miệng lở loét, rắn độc và sâu
bọ cắn.
Đơn
thuốc:
Tuệ Tĩnh đã dùng lá Chàm và Thanh đại để chữa một số bệnh
sau:
1. Chữa
uống thuốc quá liều lượng mà ngộ độc, buồn bực nguy cấp. Lá
Chàm giã nhỏ, chế nước nguội, vắt lấy nước cốt uống vài bát.
2. Chữa đơn
lở nổi bọng nước, đau nhức: Lá chàm giã nát đắp.
3. Chữa
chảy máu mũi: bột Chàm, bồ hóng sao, tán bột lượng bằng nhau,
uống mỗi lần 4g.
4. Chữa trẻ
em cam răng, thối loét; dùng Thanh đại bôi khắp chân răng, mỗi
giờ bôi một lần.
5. Chữa trẻ
em sốt cao co giật, trợn mắt, hôn mê: Thanh đại hoà với nước
cho uống, mỗi ngày 2-8g chia uống làm nhiều lần.
Viện Dược
liệu đã bào chế viên Thanh đại từ cao khô lá Chàm sao để
chữa cho phụ nữ bị rong kinh. Dùng viên thanh đại chứa 0,25g cao
khô lá Chàm mèo, mỗi ngày uống 10 viên chia làm 2 lần. Uống từ
thời điểm 5 ngày trước lúc bắt đầu có kinh nguyệt và uống
liên tục 10 ngày. Uống nhắc lại như vậy vào tháng 2, thứ 3
hoặc lâu hơn, cho đến khi kinh nguyệt trở lại bình thường thì
ngừng uống thuốc. Nếu lại tiếp tục uống kéo dài, kinh nguyệt
có thể bị chậm lại quá mức bình thường.
Người ta cũng
dùng cao Chàm mèo phối hợp với cao Ích mẫu để gây sẩy thai ở
giai đoạn sớm (thời kỳ đầu thai nghén) đạt kết quả 63%.
|
|