Cù
đèn Cù
đèn - Croton oblongifolius Roxb.,
thuộc họ Thầu dầu - Euphorbiaceae. Mô tả: Cây nhỡ cao 3-4m, có nhánh to, vặn, sần sùi,
có lá ở ngọn. Lá mọc so le hoặc 3 cái một, khi rụng để lại
những sẹo sít nhau hình bán cầu; phiến lá dài 9-10cm, rộng 4-5cm,
nhạt màu ở cả hai mặt, mặt trên nhẵn, mặt dưới có nhiều lông
hình khiên khi còn non, rồi thì nhẵn, nhưng có những chấm đen, mép
hơi có răng với một chấm tuyến ở mỗi răng. Hoa xếp 1-3 bông
ở ngọn dài 15-30cm, ở gốc mỗi bông có hoa cái mọc thưa, ở
ngọn có hoa đực mọc dầy. Hoa đực có 14-15 nhị; hoa cái với
bầu có 6 núm nhuỵ. Quả nang, hình trứng ngược, cao 9mm, rộng
7-8mm. Hạt hình trứng, lồi hai mặt, màu nâu, hơi bóng (ảnh
số 151). Bộ phận dùng: Vỏ, rễ, lá, quả, hạt
- Cortex, Radix, Folium, Fructus et Semen
Crotonis Oblongifolii. Nơi sống và thu hái: Cây của Đông Dương
và Ấn Độ, mọc hoang phổ biến ở nhiều nơi. Cũng thường được
trồng. Có thể thu hái rễ, vỏ và lá quanh năm. Dùng tươi hay phơi
khô dùng dần. Thành phần hoá học: Hạt chứa một chất
dầu béo tương tự như dầu hạt Ba đậu. Tính vị, tác dụng: Rễ Cù đèn có vị hơi
ngọt, tính ấm, có tác dụng thông kinh lạc, lợi nguyệt thuỷ, phá
thấp trệ, tiêu khối tích, thư gân cốt, chấm dứt sự tê đau. Lá
Cù đèn có tính kháng sinh, sát trùng. Vỏ, rễ, quả và hạt đều
có tính xổ. Vỏ và rễ gây chuyển hoá. Hạt và dầu hạt có tính
tẩy mạnh và xem như là có độc. Công dụng, chỉ định và phối hợp:
Rễ được dùng chữa đau lưng, nhức xương thấp, bốn mùa cảm
mạo, đau bụng. Gỗ có khi được dùng thay rễ. Là dùng đắp
chữa rắn rết cắn. Người ta dùng lá Cù đèn non phối hợp với
lá Đại bi, Dầu mè và Tầm gửi nấu nước tắm ghẻ. Buổi sáng,
vừa ngủ dậy, lấy từng nắm lá thuốc đã nấu kỹ chà xát vào
các nốt ghẻ. Phối hợp với các loại thuốc khác để nấu nước
chữa bệnh về gan. Ở Ấn Độ, người ta dùng vỏ rễ, quả và
hạt làm thuốc trị rắn cắn. Vỏ dùng đắp ngoài bó trặc và dùng
uống trong trị bệnh đau gan. |
||