EN" "http://www.w3.org/TR/xhtml1/DTD/xhtml1-strict.dtd">
Cải
cúc Cải
cúc, Cúc tần ô, Rau cúc, Rau tần ô - Chrysanthemum
coronarium L., thuộc họ Cúc - Asteraceae. Mô
tả: Cây thảo sống hằng năm,
có thể cao tới 1,2m. Lá ôm vào thân, xẻ lông chim hai lần với
những thuỳ hình trứng hay hình thìa không đều. Cụm hoa ở nách
lá, các hoa ở mép màu vàng sẫm, các hoa ở giữa đầu màu vàng
lục, thơm. Các lá bắc của bao chung không đều, khô xác ở mép. Mùa
hoa vào tháng 1-3. Bộ
phận dùng: Cành lá: - Ramulus
Chrysanthemi Coronarii. Nơi
sống và thu hái: Loài cây
của vùng Cận đông, được nhập trồng ở nhiều nơi khắp nước
ta làm rau ăn. Có nhiều giống trồng khác nhau; ta thường trồng
giống cây lùn không cao quá 70cm. Thành
phần hóa học: Rau Cải cúc
chứa 1,85% protid 2,57% glucid, 0,43% lipid và còn có nhiều vitamin B, C
và một số vitamin A. Người ta còn tìm thấy các chất khác như
adenin, chlonin. Lá chứa 7-glucosid của quercetin, quercetagetin và
luteolin. Tính
vị, tác dụng: Cải cúc có
vị ngọt nhạt, hơi đắng, the, mùi thơm, tính mát, được xem như
một loại rau giúp khai vị làm ăn ngon, giúp tiêu hoá, trừ đờm,
tán phong nhiệt. Công
dụng, chỉ định và phối hợp:
Cải cúc có thể dùng ăn sống như xà lách, chế dầu giấm, ăn
với lẩu, nấu canh... Còn dùng làm thuốc chữa ho lâu ngày và
chữa đau mắt. Ở Ấn Độ, người ta dùng cây phối hợp với
hồ tiêu để trị bệnh lậu; hoa được dùng thay thế Dương cam cúc
như là một chất thơm đắng và lợi tiêu hoá. Đơn
thuốc: 1.
Chữa ho trẻ em: Dùng lá Cải cúc thái nhỏ 6g, thêm ít mật ong,
hấp vào nồi cho tiết nước ra, chia nhiều lần uống trong ngày. 2.
Những người ăn uống kém tiêu, viêm lỵ, hay đau mắt: Dùng Cải
cúc ăn sống hoặc nấu canh ăn, đều có tác dụng trị bệnh
tốt. |
||