|
Máu
chó
Máu
chó - Knema globularia (Lam) Warb, thuộc họ Máu chó - Myristicaceae.
Mô
tả: Cây
nhỡ cao tới 10m, có các nhánh non phủ một lớp lông mềm màu hung
đỏ, cành già nhẵn, có khía. Lá dạng màng, thuôn ngọn giáo, có
mép nguyên, mặt trên bóng nhẵn, có gân lông chim với 11-15 đôi gân
phụ nổi rõ. Cum hoa ở nách lá, có lông mịn màu đo đỏ. Quả hình
trứng, hình cầu hay gần như bầu dục, khi chín nhẵn, vỏ quả
mỏng, áo hạt nguyên hay hơi xẻ ở đỉnh. Hạt có vỏ mỏng và
nhẵn.
Bộ
phận dùng:
Hạt - Semen Knemae.
Nơi
sống và thu hái:
Cây của miền Ðông Dương, mọc hoang ở vùng rừng núi. Thu hái vào
tháng 9-10. Hạt có dầu mùi hắc. Khi dùng giã nhỏ, cho thêm ít
muối rang đỏ lên rồi ép lấy dầu hoặc giã rồi nấu cho dầu
nổi lên mà gạn lấy cũng được.
Thành
phần hoá học:
Hạt chứa dầu.
Tính
vị, tác dụng:
Vị chát, hơi the, tính ấm, có tác dụng tiêu độc, sát trùng.
Công
dụng, chỉ định và phối hợp:
Thường phối hợp với các loại thuốc khác làm thuốc chữa
ghẻ, ngứa, lở, hắc lào. Người ta dùng hạt Máu chó (2 phần),
quả Bồ hòn (1 phần) hạt Củ đậu (1 phần) đều giã nhỏ, đem
nấu lấy một thứ dầu hỗn hợp để dùng. Bôi một lớp mỏng vào
chỗ ngứa sau khi rửa sạch và cào cho trợt da.
Hải
Thượng Lãn Ông đã chế thuốc bôi chữa lở ngứa và các loại
ghẻ lở: Hạt Máu chó, hạt củ đậu, Củ nghệ đều bằng nhau,
Diêm sinh bằng 1/2 mỗi vị trên, tán nhỏ, hoà với dầu vừng hay
mỡ lợn mà bôi (theo Bách gia trân tàng).
Có
thể dùng hạt Máu chó làm loại xà phòng thuốc đặc trị.
ở
Thái Lan người ta dùng dầu hạt làm thuốc trị bệnh ngoài da và
trị ghẻ.
|
|