|
Mía
Mía
- Saccharum officinarum L., thuộc
họ Lúa - Poaceae.
Mô tả: Cây thảo cao, sống dai nhờ thân rễ. Thân
đặc cao từ 2 đến 5 m. Lá phủ một lớp sáp. Lá to, bẹ có
nhiều lông dễ rụng, đốt dài 5-10cm, rộng 3-6cm, phiến rộng đến
6cm, màu lục, màu vàng hay đỏ tím, có một gân giữa trắng. Cụm
hoa là chuỳ (cờ) rộng và to ở ngọn cây, mang hoa dầy đặc, bông
nhỏ có một hoa sinh sản.
Bộ phận dùng: Thân và rễ - Caulis et Radix Sacchari Officinari.
Nơi sống và thu hái: Loài của Mêlanêdi,
được trồng rộng rãi ở Ấn Ðộ, các nước Ðông Nam Á và Mỹ
châu. Ở nước ta, mía cũng được trồng nhiều ở các tỉnh
miền Trung như Quảng Nam, Quảng Ngãi và các tỉnh miền Bắc như
Hoà Bình, Hà Tây, Vĩnh Phú. Mía ưa đất phù sa, sau 11-18 tháng đã
có thu hoạch cây để ép mật chế đường và làm thuốc. Rễ có
thể thu hái quanh năm.
Thành phần hóa học: Thân Mía chứa đường
saccharose 7-10%, protein 0,22%, chất bép 0,5% và tro 0,5%. Trong tro có
calcium oxalat, magnesium oxalat..., trong rễ có mangan oxalat 4,54%.
Tính vị, tác dụng: Mía có vị ngọt, ngon, tính
mát; có tác dụng giải khát, khỏi phiền nhiệt bốc nóng, mát
phổi lợi đàm, điều hoà tỳ vị, khỏi nôn oẹ, mửa khan, xốn
xáo trong bụng. Ở Ấn Ðộ, người ta cho là mía có tác dụng
nhuận tràng, lợi tiểu, giải nhiệt, kích dục. Rễ mía có tác
dụng làm nhầy, giải nhiệt và lợi tiểu. Ðường cát có vị
ngọt, tính mát, có tác dụng nhuận tâm phế, bổ tỳ, điều hoà
can khí, giải nhiệt độc, say rượu, say sắn.
Công dụng, chỉ định và phối hợp:
Mía được dùng ép lấy nước uống chữa sốt, khát nước, tiểu
tiện đỏ, còn dùng chữa nôn oẹ. Ðường cát còn dùng chữa
bệnh lỵ, ăn uống không vào, chữa ho lâu khỏi và chữa trẻ em
ho.
Đơn thuốc:
1.
Chữa nôn oẹ: ép mía lấy nước, pha thêm ít nước Gừng cho
uống.
2.
Chữa đi lỵ, ăn uống không vào: Ðường cát 3 thìa, Ô mai 3 quả,
sắc uống.
3.
Chữa ho trẻ em: Ðường phèn (đường cát kết tinh) với Hoa hồng
bạch chưng cách thuỷ cho uống.
|
|