|
Rau
tàu bay
Rau
tàu bay - Gynura crepidioides Benth, thuộc họ Cúc- Asteraceae.
Mô
tả:
Cây thảo mập mọc đứng cao tới 1m. Thân tròn hay khía cạnh, màu
xanh. Lá mỏng, hình trứng dài, phần chóp phiến lá có hình thoi,
phần dưới có những thuỳ xẻ sâu; mép lá có răng cưa. Cụm hoa
dạng đầu, mọc ở nách lá hoặc ở ngọn, gồm nhiều hoa màu
hồng nhạt, bao chung gồm hai hàng lá bắc hình sợi. Quả bế hình
trụ, có một mào lông trắng ở đỉnh.
Cây
ra hoa quả mùa xuân, hạ.
Bộ
phận dùng:
Ngọn non và lá - Ramulus et Folium Gynurae Crepidioidis.
Nơi
sống và thu hái:
Rau tàu bay phân bố ở các nước Ðông Dương, Trung Quốc và một
số các nước Châu Phi. Ở nước ta, nó mọc rất phổ biến ở các
bãi hoang sau nương rẫy, ven đường đi ở đồi, bìa rừng, ven khe
suối. Nhờ có lượng quả nhiều, nên dễ phát tán đến nhiều nơi.
Thành
phần hoá học:
Thành phần dinh dưỡng tính theo % như sau: nước 93,1; protein 2,5;
glucid 1,9; cellulose 1,6; dầu xuất không protein 3,7; khoáng toàn phần
0,9, trong đó có calcium 81mg%, phosphor 25mg%, caroten 3,4mg% và vitamin C
10mg%.
Công
dụng, chỉ định và phối hợp:
Rau tàu bay được dùng làm rau ăn sống, hoặc luộc, xào, nấu canh
hay muối dưa ăn. Khi nấu canh phải để lắng, gạn bỏ hết dầu,
mới thêm mắm muối để đỡ mùi hắc.
Nhân
dân thường dùng lá tươi giã nát hoặc nhai nát đắp lên những
vết rắn, rết cắn.
Ở
Campuchia, người ta dùng nó để trị các biến chứng sau khi sinh.
Ghi
chú: Có một số loài khác được gọi là rau tàu bay lá xẻ
ERechtites valerimifolia (Wolf) DC và E. hieraciflolia (L) Rafin vv... đều có
ngọn non và lá dùng nấu canh hay xào ăn ngon.
|
|