|
Rung
rúc
Rung
rúc, Rút đế, Đồng bia - Berchemia
lineata (L.) DC. thuộc họ Táo ta - Rhamnaceae.
Mô tả:
Cây nhỏ dạng bụi leo cao 1-4m, cành non mảnh có màu xanh nhạt, không
lông. Lá mọc so le; phiến nhỏ, xoan, bầu dục, dài 1,5-2,5cm, rộng
0,7-1,2cm, tù hai đầu, gân phụ 5-6 cặp, nổi rõ, gần song song,
cuống 5-7mm. Hoa mọc thành chùm ở đầu cành hay ở nách lá; hoa
nhỏ, màu trắng, mẫu 5, cánh hoa dài hơn đài thuôn, có móng nhỏ
ở phía dưới; đĩa mật dày, mép chia thuỳ, bầu ẩn trong đĩa
mật, 2 ô. Quả hạch dài 5-6mm, hình trứng, màu đen; hạt 2.
Hoa
nở tháng 8-9; quả chín từ tháng 10 đến tháng 1 năm sau.
Bộ phận dùng:
Rễ - Radix Berchemiae Lineatae.
Nơi sống và thu hái:
Loài của Ấn Độ, Xích Kim, Nhật Bản, Trung Quốc và Việt Nam. Cây
mọc rất phổ biến nơi đất trống, dãi nắng, ven rừng thưa
thứ sinh, miền trung du, gặp nhiều miền Bắc Việt Nam. Thu hái
rễ quanh năm, rửa sạch, thái phiến, phơi khô dùng dần. Khi dùng,
tẩm rượu sao cho thơm.
Tính vị, tác dụng:
Vị ngọt nhạt, hơi đắng và chát, tính bình; có tác dụng khử
ứ, chỉ khái, khư đàm, giảm đau.
Công dụng:
Thường được dùng trị: 1. Khái huyết trong lao phổi, viêm khí
quản cấp; 2. Chảy máu dạ dày và ruột, chảy máu cam, nội thương
xuất huyết; 3. Bệnh tinh thần phân lập; 4. Viêm gan, viêm tinh hoàn;
5. Đòn ngã tổn thương, đau nhức khớp xương do phong thấp. Liều
dùng 30-50g, dạng thuốc sắc.
Dùng
ngoài trị viêm mủ da, rắn độc cắn; giã cây tươi, thêm muối,
đắp; để trị đòn ngã thì ngâm trong rượu và xoa bóp.
Dân
gian còn dùng trị sốt rét, ỉa chảy.
Đơn thuốc:
1.
Lao phổi có khái huyết: Rung rúc 60g, Mỏ quạ 30g, Bạch cập 12g,
Agiao 10g, sắc uống.
2.
Viêm khí quản cấp: Lá Rung rúc và rượu 60g, sắc nước, chia 2
lần uống trong ngày, điều trị liên tục trong 15 ngày.
|
|