|
Roi
Roi,
Lý, Bồ đào, Gioi, Ðiều đỏ - Syzygium jambos (L.) Alston (Eugenia
Jumbos L.) thuộc họ Sim - Myrtaceae.
Mô
tả: Cây gỗ có kích thước
trung bình (10-12m). Lá hình ngọn giáo, hơi thon hẹp ở gốc, thon dài
và mảnh ở phía đầu, cứng, có điểm tuyến trong suốt, dài
13-20cm, rộng 3-5cm; cuống lá ngắn. Hoa trắng hay xanh xanh, to, thành
chùm ít hoa ở ngọn. Quả mọng gần hình cầu; đường kính 30cm,
trong đài hoa tồn tại, nạc, xốp, ít nước, ngọt, thơm. Hạt
1-2, xám.
Hoa
tháng 2-5; quả tháng 6-8.
Bộ
phận dùng: Quả, lá - Fructus et
Folium Syzigii. Vỏ rễ, hạt, vỏ quả cũng được dùng.
Nơi
sống và thu hái: Cây của phân
vùng Ấn Độ - Malaixia, cho tới Inđônêxia. Cũng được trồng ở
nhiều xứ nhiệt đới. Ở nước ta, thường thấy mọc ở những
nơi ẩm, ven suối, từ Hà Tây, Hà Bắc, Nam Hà, Ninh Bình, Sơn La,
Nghệ
An, Hà Tĩnh cho tới các tỉnh phía Nam.
Thành
phần hóa học: Trong 100g phần
ăn được của quả có: nước 84,80g, protein 0,5-0,8g, chất béo
0,2-0,3g, carbohydrat 9,7-14,2g, xơ 1-2g, tro 0,3-0,4g, caroten 123-235IU,
vitamin B complex 0,55-1,04mg và vitamin C 3-37mg. Nạc quả chứa hàm lượng
pectin cao. Trong quả còn có các acid amin tự do. Tinh dầu chiết
xuất từ lá chứa 27% dl a-pinen
và 24% l-limonen, 2 monoterpen có vòng. Các bộ phận khác của cây, như
hạt, lá, thân, rễ và vỏ đều có độc, do có alcaloid jambosin và
acid hydrocyanic. Lá và vỏ còn chứa tanin, một oleorsin và một lượng
nhỏ alcaloid.
Tính
vị, tác dụng: Vị ngọt, chát, tính bình. Vỏ rễ có tác dụng lương
huyết, tiêu thũng, sát trùng, thu liễm. Chất chiết từ lá cây có
tác dụng với nhiều loại vi khuẩn gây bệnh; đặc biệt là các
loại liên cầu khuẩn, với vi khuẩn bạch hầu và vi khuẩn phế
cầu. Như vậy lá Roi dùng tốt, chữa bệnh chống lại vi khuẩn
sinh mủ và gây bệnh đường hô hấp.
Công
dụng, chỉ định và phối hợp: Quả
có dạng quả táo, màu trắng vàng, có nhuốm hồng nhiều hay ít, có
nạc trắng, ít ngọt, mùi thơm của hoa hồng. Có thể nấu chín
với đường dùng ăn tốt. Quả và lá được dùng làm thuốc trị
ỉa chảy, đau mắt. Lá cũng được dùng làm thuốc trị bệnh đường
hô hấp.
Ở
Inđônêxia, lá cũng được dùng trị ỉa chảy, lỵ và sốt.
Ở
Campuchia, nước ngâm lá dùng uống làm thuốc trị sốt; lá giã ra
và xát vào người trong trường hợp bị bệnh đậu mùa, có tác
dụng làm mát.
Ở
Ấn Độ, lá nấu lên dùng chữa đau mắt; quả dùng chữa đau gan.
Ở
Vân Nam (Trung Quốc) người ta dùng vỏ rễ để trị lỵ, ỉa
chảy, dao chém xuất huyết; hạt được dùng trị bệnh đái đường;
chứng khô (can táo); vỏ quả dùng trị nấc nghẹn.
|
|