EN" "http://www.w3.org/TR/xhtml1/DTD/xhtml1-strict.dtd">
Riềng
rừng Riềng
rừng - Alpinia conchigera Criff., thuộc họ Gừng - Zingiberaceae. Mô
tả: Cây thảo cao khoảng 80cm.
Lá hình dải ngọn giáo, nhọn hai đầu, có mũi nhọn ở chóp, có
lông ở trên gân chính, dài 17cm, rộng 3cm; bẹ lá có khía; cuống
lá có cánh, rất ngắn. Chùy hoa ở ngọn, dài 11cm; lá bắc hình
ống cao 5-7mm; bông nhỏ khoảng 15-25. Hoa dài 1cm, màu trắng hay da
cam, tràng hoa có thùy trái xoan, lõm, nhẵn hay có lông rải rác và
dễ rụng; cánh môi rất lõm rồi cuốn lại, có 3 thùy. Quả mọng
hình cầu, đường kính 8mm, nâu đỏ khi khô. Hạt 3-5, vàng nâu, có
vị cay của Hồ tiêu. Bộ
phận dùng: Thân rễ - Rhizoma
Alpiniae Conchigerae. Nơi
sống và thu hái: Loài của
Ấn Độ, Trung Quốc, Campuchia, Malaixia, Inđônêxia. Ở nước ta, cây
thường gặp ở những nơi ẩm, dựa suối dưới tán rừng một
số tỉnh ở Nam bộ từ Ðồng Nai tơi An Giang. Có thể thu hái thân
rễ quanh năm. Tính
vị, tác dụng: Vị cay, tính nóng, có mùi thơm; có tác dụng kiện tỳ giúp
tiêu hóa và giảm đau; còn có tác dụng phấn khích, trị ho. Công
dụng, chỉ định và phối hợp:
Thân rễ cũng được sử dụng như các loài Riềng khác làm gia
vị, làm men rượu. Ở
Campuchia, nó được dùng làm thuốc kích thích, trị ho, làm ra mồ
hôi và điều chỉnh sự xuất huyết tử cung. Phối hợp với
những thuốc khác dùng uống trong chữa ho mạn tính, các bệnh đau
gan với vàng da, đau đầu, chóng mặt và viêm tử cung. Dùng ngoài
để chế thuốc đắp chữa bệnh gan, đau dây thần kinh và thấp
khớp. Ở
Malaixia, lá dùng riêng hoặc phối hợp với thân rễ được sử
dụng rộng rãi làm thuốc chuyền máu. Hơ nóng lên dùng đắp khi
đau thấp khớp, nước hầm lá dùng để tắm rửa. Lá giã ra dùng
đắp sau khi sinh đẻ và xoa vào cơ thể chống đau trong xương. Ở
Trung Quốc, rễ và thân được dùng chữa ngực bụng trướng đau,
tiêu hóa không bình thường, đau bụng. |
||