|
Râu
mèo
Râu
mèo, Cây bông bạc - Orthosiphon spiralis (Lour.) Merr., thuộc họ
Hoa môi - Lamiaceae.
Mô
tả: Cây thảo lâu năm, cao
khoảng 0,5-1m. Thân vuông, thường có màu nâu tím. Lá mọc đối, có
cuống ngắn, chóp nhọn, mép khía răng to. Cụm hoa là chùm xim co
ở ngọn thân và ở đầu cành. Hoa màu trắng sau ngả sang màu xanh
tím. Nhị và nhụy mọc thò ra ngoài, nom như râu mèo. Bao phấn và
đầu nhụy màu tím. Quả bế tư.
Bộ
phận dùng: Toàn cây - Herba
Orthosiphonis.
Nơi
sống và thu hái: Loài cây
miền Malaixia - Châu Ðại Dương, thường được trồng nhiều ở vùng
đồng bằng và vùng núi, cây chịu ngập tốt. Trồng bằng hạt.
Khi dùng làm thuốc, cắt cả cây, thu hái khi cây chưa có hoa, rửa
sạch, thái nhỏ, phơi khô.
Thành
phần hoá học: Cây chứa một
glycosid đắng là orthosiphonin, tinh dầu, chất béo, tanin, đường và
một tỷ lệ khá cao muối vô cơ, trong đó chủ yếu là muối kali.
Tính
vị, tác dụng: Râu mèo có vị ngọt, nhạt, hơi đắng, tính mát; có tác
dụng thanh nhiệt, lợi tiểu, tiêu viêm, trừ thấp.
Râu
mèo làm tăng lượng nước tiểu và thúc đẩy sự bài tiết urê,
các chlorua và acid uric. Có tác dụng tốt đối với các chứng
rối loạn đường tiêu hóa, bệnh thấp khớp, đau lưng, đau nhức
khớp xương. Còn có tác dụng tốt đối với bệnh xung huyết gan
và bệnh đường ruột. Hiệu quả của nó là do tác dụng kết
hợp của glycosid với các muối kiềm, các chất giống như tanin
của dầu thơm và của một saponin. Dịch chiết bằng nước giàu
hoạt chất hơn (28,8%).
Công
dụng, chỉ định và phối hợp:
Thường được dùng trị: 1. Viêm thận cấp và mạn, viêm bàng
quang; 2. Sỏi đường niệu; 3. Thấp khớp tạng khớp. Liều dùng
30-50g, dạng thuốc sắc.
Ðơn
thuốc:
1.
Viêm thận phù thũng: Râu mèo, Mã đề, Lưỡi rắn trắng, mỗi
vị 30g, sắc uống.
2.
Sỏi niệu đạo, bệnh đường tiết niệu: Râu mèo, Chó đẻ răng
cưa, Thài lài, mỗi vị 30g, sắc uống.
|
|