|
Thổ
mộc hương
Thổ
mộc hương - Inula helenium L., thuộc họ Cúc - Asteraceae.
Mô
tả: Cây thảo sống lưu niên,
cao tới 2m có thân rễ to, dạng hành. Thân to khoẻ, có lông mềm và
phân nhánh chỉ ở phần trên mà thôi. Các lá gốc dài tới hơn
50cm, hình bầu dục và tận cùng thành mũi nhọn, hơi ít lông ở
mặt trên, có lông màu phớt và xám ở mặt dưới; mép lá chỉ hơi
có răng. Các lá của thân có cùng hình dạng nhưng nhỏ hơn. Cụm
hoa hình đầu lớn 5-6 (-7)cm, có một vòng các hoa hình lưỡi vàng
rất hẹp và rất nhiều hoa hình ống. Quả bế, hình trụ có 4 góc;
màu nâu nâu, phía trên có một mào lông đơn, màu hung hung.
Ra
hoa tháng 5-7, kết quả tháng 7-9.
Bộ
phận dùng: Rễ củ - Radix
Inulae Helenii, thường gọi là Thổ mộc hương.
Nơi
sống và thu hái: Gốc ở ý và
vùng Ban Căng, được thuần hoá và mọc hoang dại ở khắp Âu châu,
sang vùng Trung Ðông. Hymalaya đến Bắc Mỹ. Ta có nhập trồng vào
khoảng những năm 1960. Cây cần đất tốt và dễ trồng, hoặc
bằng hạt, hoặc bằng những đoạn thân ngầm. Trồng theo khoảng
cách 40 x 80cm. Thu hoạch rễ vào mùa thu từ cuối thứ hai đầu năm
thứ ba, rửa sạch, thái miếng cỡ 2cm, phơi khô ngoài ánh nắng
mặt trời hoặc sấy ở nhiệt độ 30o-45o.
Thành
phần hóa học: Rễ chứa 44%
inulin, pseudoinulin và inulenin, đường kết tinh (ở rễ tươi). Trong
rễ củ chứa 0,896-3% tinh dầu lẫn lộn thành khối, trong đó có
alantolactone hay helenin thương mại C15H20O2, thường kèm theo
isoalantolactone hay helenin thật C15H20O2 và một dẫn xuất khác,
dihydro-iso-alantolactone, một ít acid alantolic, rất ít alantol (ở rễ
tươi), chất lỏng dạng dầu có mùi hồ tiêu; còn có dammarodienyl
acetat và một chất màu đen gọi là phytomelane.
Tính
vị, tác dụng: Vị cay đắng,
tính ấm; có tác dụng kiện tỳ hoà vị, điều khí giải uất,
chỉ thống an thai. Thổ mộc hương kích thích mạnh sự tiết các
dịch tiêu hoá (giúp ăn ngon miệng), nó còn là chất lợi tiểu
nhẹ, làm tan sưng và long đờm trong bệnh viêm phế quản.
Công
dụng, chỉ định và phối hợp:
Thường dùng làm thuốc giúp sự tiêu hoá, ăn ngon cơm, thông
tiểu, chữa ho, ho cơn, viêm khí quản, bạch đới, bệnh xanh lướt,
thiếu máu; còn dùng chữa ngực bụng quặn đau, ngực sườn bầm
tím, đau hai bên sườn, ỉa chảy, kiết lỵ, thai động không yên.
Ở
Âu Châu, người ta dùng chủ yếu là cồn thuốc (20-30 giọt, 3-4
lần trong ngày với một ít nước). Có khi dạng thuốc nước (đun
sôi 1-2 thìa cà phê rễ cắt mịn với 1/2 lít nước và để cho
ngấm) hoặc dạng bột (dùng bằng mũi dao) chống sự lười ăn và
đau dạ dày, cả trong bệnh viêm phế quản.
|
|