|
Nho
Nho
- Vitis vinifera L., thuộc họ Nho
- Vitaceae.
Mô tả:
Dây leo bằng cành có tua cuốn. Vỏ lúc đầu màu lục, rồi màu
tro khi hoá bầu bong ra thành dải mỏng. Lá mọc so le thành hai dãy
có hai lá kèm sớm rụng; phiến lá chia 5-7 thuỳ, khía răng không
đều ở mép; cuống lá dài. Tua cuốn đối diện với lá, rẽ đôi
một hai lần, ở chỗ rẽ có một lá giảm. Hoa mọc thành chùm xim
hai ngả; hoa đầu, tạp tính khác gốc, màu xanh xanh. Quả mọng hình
trứng lúc tươi, vàng vàng đỏ hay đen, chứa 4 hạt hình quả lê,
có vỏ rắn như xương.
Bộ phận dùng:
Toàn cây- Herba Vitidis Viniferae,
thường có tên là Bồ đào.
Nơi sống và thu hái:
Cây nhập nội, được trồng chủ yếu làm cảnh, làm giàn lấy bóng
mát. Ở các tỉnh Nam Trung bộ và Đông Nam bộ (Phú Yên, Khánh Hoà,
Ninh Thuận, Bình Thuận, Lâm Đồng, thành phố Hồ Chí Minh), ta
nhập trồng nhiều giống của Pháp, Hoa Kỳ, Úc, để lấy quả
ngọt làm rượu chát. Trồng bằng hom, lấy ở cành già một năm
tuổi, làm đất sâu, bón phân đủ và giữ đất ẩm. Cắt tỉa cành
và chăm bón để nuôi quả.
Thành phần hoá học:
Quả Nho chứa 0,2% protein, 0,1% chất béo, 0,1% glucid, 0,2% tro. Trong
100ml dịch quả có 0,05mg As.
Trong
quả chín có acid oxalic, acid malic, acid tartaric và acid racemic, còn
một lượng nhỏ vitamin B1 và B2. Hạt chứa 2% dầu nửa khô. Lá
của thứ Nnho đỏ chứa tanin, levulose saccharose, dextrose, choline,
inositol, vitamin C, các chất màu, anthocyan.
Tính vị, tác dụng:
Quả nho có vị ngọt, chua, tính bình; có tác dụng bổ khí huyết,
cường gân cốt, lợi tiểu tiện, nhuận tràng, lợi tiêu hoá. Rễ
Nho có vị ngọt, chát, tính bình; có tác dụng khư phong thấp,
nối gân, lợi niệu. Dây lá Nho có vị ngọt, chát, tính bình; có
tác dụng giải độc, lợi niệu. Lá của loài Nho đỏ có tác
dụng bổ thần kinh và mạch máu, điều hoà huyết, làm săn da,
lợi tiểu và làm mát.
Công dụng:
Nho khô được dùng ở Trung Quốc trị: Thận hư đau lưng, choáng
đầu, viêm dạ dày mạn tính, hư nhiệt phiền khát, thai động không
yên. Nho tươi trị: Đái buốt, đái dắt, đái ra máu.
Dịch
quả tươi chát, được dùng ở Ấn Độ trị bệnh đau cổ họng.
Ở
châu Âu, người ta dùng chữa bệnh đau tim thận, chứng béo phì và
táo bón.
Rễ
Nho trị: Viêm khớp đau nhức xương, đau nhức gân cốt khớp xương.
Rễ
và cành bên dùng làm thuốc cầm nôn, an thai.
Ở
Ấn Độ, lá dùng làm thuốc ỉa chảy.
Nhựa
các cành non dùng làm thuốc trị các bệnh ngoài da.
Ở
Âu châu, lá của loài Nho đỏ dùng chữa rối loạn tuần hoàn,
rối loạn mãn kinh, chứng mũi đỏ, dãn tĩnh mạch, trĩ, thống
kinh, ỉa chảy và giảm niệu.
Đơn thuốc:
1.
Chữa đau lưng, mỏi gối, thũng đầy, nôn oẹ, buồn nôn hay thai
động trồi lên: Dùng lá, dây, rễ Nho 20-40g, sắc uống.
2.
Chữa động thai hay nôn nghén: Quả Nho 40g ăn hay sắc uống.
3.
Đái buốt, đái dắt, đái ra máu: Nho tươi, ngó sen, Sinh địa hoàng
lượng vừa đủ, mật ong 150g. Trước hết lấy 3 vị thuốc giã nát
từng thứ, vắt lấy nước lấy đủ 1000ml, pha mật ong vào trộn
đều, sắc nhừ, mỗi ngày dùng 3 lần, mỗi lần 100ml, trước
bữa ăn nửa giờ, chiêu thuốc với nước ấm.
Ghi chú:
Ở nước ta cũng có trồng một loài khác là Vitis
labrusca L., với lá có 3 thuỳ, có lông trắng ở mặt dưới, có
quả tròn tròn, màu lục hay vàng vàng, có hạt hay không. Cũng có công
dụng như Nho.
|
|