|
Ðậu
tắc
Ðậu tắc,
Ðậu rựa, Ðậu ngựa - Canavalia ensiformis (L., ) DC., thuộc
họ Ðậu - Fabaceae.
Mô
tả:
Cây thảo sống hằng năm, mọc nằm, có khi leo dài 2-3m, không lông.
Lá kép có 3 lá chét, lá chét xoan bầu dục, dài 10-20cm, rộng 6-12
cm, đầu tù hay có mũi ngắn, mặt trên màu lục, mặt dưới
nhạt. Chùm hoa ở nách lá dài 25-45cm, mỗi u mang 3-5 hoa, màu
trắng, ống đài dài 7-10mm, có lông; cánh cờ to 1,5-2,2cm, luôn có
sọc đỏ. Quả đậu dài 25-30cm, rộng 2,5-3,5cm; hạt 10-20, trắng
hay ngà, dài 2-2,5cm, có đốm nâu ở gẫn tễ.
Bộ
phận dùng:
Hạt - Semen Canavaliae Ensiformis.
Nơi
sống và thu hái: Gốc ở Trung Mỹ được nhập trồng ở
nhiều nước châu á, châu Phi. Nay ta trồng ở nhiều nơi, nhất là
ở các tỉnh vùng Tây Nguyên.
Thành
phần hoá học: Hạt chứa 3 chất kết tủa hồng cầu là
canavalin, concanavalin A và concanavalin B; còn có canavanin và arginin,
desaminocanavanin, cholin, trigonellin, betonicin, canein và kitogin. Chất gây
say là concavalin A. Nó kết tủa một số virus và vi trùng, làm
giảm khả năng hấp thu chất dinh dưỡng qua ruột non.
Tính
vị, tác dụng: Vị ngọt, tính ấm; có tác dụng ôn
trung, hạ khí.
Công
dụng, chỉ định và phối hợp: Nếu ăn quả đậu nấu
không kỹ sẽ bị say, đau bụng và thoát vị, do đó việc dùng đậu
tắc bị hạn chế. Tuy nhiên nếu ta rửa kỹ hoặc nấu chín 2-3 nước
trong 2-3 giờ hoặc rang vàng thì sẽ khử được chất độc. Nói
chung khi ăn hạt, quả đậu tắc, thì nên luộc bỏ nước trước
khi dùng. Hạt dùng làm tương, làm nhân bánh hay thức ăn cho vật
nuôi. Hạt cũng dùng làm thuốc chữa đau ngực, đau phổi, ho.
|
|