|
Ðậu
tây
Ðậu tây - Phaseolus
vulgaris L., thuộc họ Ðậu - Fabaceae.
Mô
tả:
Cây thảo thấp hoặc cây leo. Lá kép 3 lá chét hình trái xoan, có
đầu nhọn, mặt trên thường có lông và ráp. Hoa rộng 1-2cm, màu
trắng, xanh lơ hay hồng. Quả đậu dài 10-30cm, đầu hình mỏ.
Hạt có nhiều màu sắc khác nhau.
Bộ
phận dùng:
Vỏ quả, quả non còn tươi - Pericarpium et Fructus Phaseoli Vulgaris.
Nơi
sống và thu hái: Cây gốc ở Nam Mỹ châu được nhập
trồng ở nhiều nước, và vào nước ta khoảng trên 80 năm. Nay
được trồng rộng rãi ở nhiều nơi, tới độ cao 1500m. Hiện có
nhiều chủng loại được phân làm hai nhóm, Ðậu lùn và Ðậu
leo. 1. Ðậu lùn: Cây cao 40-45cm, thời gian sinh trưởng 80-100 ngày,
có các chủng: a. Ðậu ăn quả như Ðậu vàng (Ðậu cô bơ), Ðậu
đỏ; b. Ðậu ăn hạt, như Ðậu tây trắng, Ðậu ấn nguyên, Ðậu
cô ve hạt đen và Ðậu cô ve hạt đỏ. 2. Ðậu leo, gồm: a. Ðậu
ăn quả, như Ðậu chạnh, Ðậu quả xanh dài; b. Ðậu ăn hạt; Ðậu
bở, Ðậu lơ, Ðậu tây chịu nóng vừa phải, ưa mát, nhiệt độ
thích hợp 12-23oC, độ ẩm không khí trên 50%, với nhiệt
độ ban ngày tối đa 32oC, ban đêm 12-15oC. Năng
suất cao nhất ở đất pH 5-6, bón nhiều phân hữu cơ. Ở nơi thích
hợp, năng suất đạt 2000-2500 kg hạt/ha.
Thành
phần hoá học: Quả chưa chín chứa inositol (0,75%); nó
chứa trung bình 1,16% đường saccharose, 88,75% nước, 0,14 lipid, 2,72
chất có nitơ, 0,61 tro, 1,18 chất xơ. Vỏ quả trước khi hạt chín
chứa asparagin, arginin, tyrosin, leucin, lysin, cholin, trigonellin,
tryptophan, allantoin, acid allantoic, men allantoinase và urinase; tới 48,6%
hemicellulose khi thuỷ phân cho galactose, arabinose và một ít levulose.
Quả còn non cứ 1 kg tươi, chứa 0,35 mg kền (Niken) và 0,005mg coban.
Hạt Ðậu tây chứa trung bình theo tỷ lệ % nước 13, protein 19,98,
lipid 1,52, dẫn xuất không protein 59,15, tro 3,5, cellulose 2,8. Mầm
hạt Ðậu tây rất giàu protein, hàm lượng có thể tới 44,50%.
Tính
vị, tác dụng: Vỏ quả lợi tiểu, làm giảm lượng đường
huyết. Ðậu còn non do chứa inositol nên là chất hồi sức cho tim.
Công
dụng, chỉ định và phối hợp: Người ta dùng quả non làm
rau xanh giàu chất dinh dưỡng cho người; có thể ăn luộc, thái lát
xào. Hạt đậu già dùng hầm thịt, thổi xôi, nấu chè, làm nhân
bánh, làm giá. Ðể làm thuốc, người ta dùng vỏ quả trị thuỷ
thũng và đái đường. Người ta dùng 3-4 nắm vỏ quả đậu khô,
ngâm vào 2 lít nước trong vài giờ cho mềm, rồi đun nhanh và để
cho ngấm, lấy nước uống. Trong trường hợp đái đường, thuốc
không có tác dụng điều trị lành hẳn bệnh nhưng lại có tác
dụng chống đỡ tốt.
Ở Ấn Độ,
người ta sử dụng đậu tây như thuốc làm dịu.
|
|