|
Găng
tu hú
Găng
tu hú, Găng trâu, Găng gai - Catunaregam spinosa (Thunb.) Tirving. (Randia
spinosa (Thunb.) Poir. R. dumetorum Lam.) thuộc họ Cà phê- Rubiaceae.
Mô tả: Cây nhỡ hay cây
gỗ nhỏ cao tới 8m, rất phân nhánh, có gai to, nhọn, dài 5-15mm. Lá
xoan ngược, tù hay gần nhọn ở đầu, nhọn sắc ở gốc, nhẵn,
ráp hay có lông mềm trên cả hai mặt, gần dai, dài 2,5-7cm, rộng
1,5-3cm. Hoa màu vàng lục hay trắng thường đơn, hầu như không
cuống. Quả dạng quả mọng, hình cầu hay hình trứng, đường kính
2,5-5cm, nhẵn, mang các lá đài đồng trưởng, màu vàng. Hạt
nhiều, đen, chìm trong nạc của quả.
Hoa
tháng 3-9, quả tháng 3-11.
Bộ phận dùng: Quả,
rễ và vỏ cây - Fructus, Radix et Cortex Catunaregami Spinosae.
Nơi sống và thu hái: Cây
mọc ở khắp vùng Viễn đông nhiệt đới và Ðông Phi châu nhiệt
đới. Phổ biến khắp nước ta, thường trồng làm hàng rào vì cây
có nhiều gai. Quả thu hái vào mùa thu, đông, dùng tươi. Rễ và
vỏ thu hái quanh năm, dùng tươi hay phơi khô dùng dần.
Thành phần hoá học:
Từ bột rễ, đã chiết được scopolatin, cơm quả chứa saponin
trung tính và acid, tinh dầu và acid nhựa. Quả khô chứa một lượng
nhỏ saponin kết tinh gọi là ursosaponin. Còn có b-sitosterol
và một triterpen mới.
Tính vị, tác dụng:
Quả làm kích thích gây nôn. Cơm quả cầm lỵ, trừ giun, gây sẩy
thai. Vỏ quả làm săn da. Vỏ cây se, có tác dụng bổ và lợi tiêu
hoá. Nước chiết vỏ rễ có tác dụng diệt trùng.
Công dụng, chỉ định và phối hợp: Lá thường dùng làm thạch (Sương sâm). Rễ nghiền ra dùng
duốc cá. Vỏ rễ và thân hãm uống để điều kinh. Quả dùng
nhuộm vàng, lại dùng ngâm lấy nước trừ giun đất và đỉa. Cũng
dùng chữa mụn nhọt lở loét (lấy quả Găng bổ đôi, bỏ hạt
cho vôi vào, lấy đất sét bọc ngoài, đốt tồn tính. Bỏ đất,
tán quả thành bột rắc chung quanh vết loét).
Ở
Ấn Độ, quả xanh dùng để duốc cá. Cơm quả dùng trị lỵ và
trừ giun, cũng dùng làm thuốc gây nôn. Ðem tán bột, đắp vào lưỡi
và vòm khẩu cái trị sốt và đau ốm của trẻ em khi mọc răng.
Vỏ dùng làm thuốc uống trong và cũng dùng đắp ngoài trị đau xương
trong khi bị sốt; dùng ngoài đắp để giảm đau trong bệnh thấp
khớp. Cũng dùng trị ỉa chảy và lỵ. Vỏ rễ cũng dùng uống
trị đau bụng. Người ta cũng đập giập vỏ thả xuống nước để
duốc cá.
Ở
Trung Quốc, người ta gọi nó là Sơn thạch lựu. Rễ và quả được
dùng trị đòn ngã và trừ phong thấp. Quả, rễ và vỏ cây được
sử dụng làm thuốc, có thể dùng để gây nôn mửa. Lá giã lẫn
với đường để đắp tiêu sưng đau, quả khi còn xanh có thể dùng
duốc cá. Vỏ quả có thể đun nước rửa bệnh ngoài da. Dân gian
thường lấy cành non và mầm giã nát đắp vào chỗ bị gai cắm vào,
có thể lôi gai ra được.
|
|