|
Bèo lục bình
Bèo lục bình, Bèo tây, Bèo Nhật
Bản, Bèo sen - Eichhornia crassipes (Mart) Solms, thuộc họ Bèo lục bình -
Pontederiaceae.
Mô tả:
Cây thảo sống nhiều năm, nổi ở
nước hoặc bám trên đất bùn, mang một chùm rễ dài và rậm ở phía dưới. Kích thước
cây thay đổi tuỳ theo môi trường sống có nhiều hay ít chất màu. Lá mọc thành hoa
thị, có cuống phồng lên thành phao nổi, gân lá hình cung. Cụm hoa bông hay chuỳ
ở ngọn thân dài 15cm hay hơn. Hoa không đều, màu xanh nhạt hay tím; đài và tràng
cùng màu, hàn liền với nhau ở gốc, cánh hoa trên có một đốm vàng; 6 nhị (3 dài,
3 ngắn); bầu trên 3 ô, chứa nhiều noãn, nhưng chỉ có một cái sinh sản. Quả nang.
Cây ra hoa từ mùa hạ tới mùa
đông.
Bộ phận dùng:
Phần của cuống lá phồng lên
thành phao nổi - Petiolus Eichhorniae, hoặc dùng toàn cây - Herba Eichhorniae.
Nơi sống và thu hái:
Cây gốc ở châu Mỹ (Brazin)
năm 1905 được đem vào trồng làm cảnh ở Hà Nội. Về sau lan ra khắp nơi một cách
nhanh chóng. Nhân dân ta thường dùng toàn cây làm phân xanh hoặc chất độn có
phân chuồng và dừng chân nuôi lợn. Ðể dùng làm thuốc, lấy cây về, bỏ thân và rễ,
chỉ lấy lá, chủ yếu là phần phình của cuống lá.
Thành phần hoá học:
Người ta đã biết
thành phần hoá học của Bèo lục bình theo tỷ lệ %: Nước 92,6, protid 2,9, glucid
0,9, xơ 22, tro 1,4, calcium 40,8mg%, phosphor 0,8mg%, caroten o,66mg% và
vitamin C 20mg%.
Tính vị, tác dụng:
Vị nhạt, tính mát; có
tác dụng sơ phong thanh nhiệt,
lợi niệu giải độc, tiêu sưng,
giảm đau.
Công dụng, chỉ định và phối hợp:
Bèo lục bình
có thể dùng làm thức ăn cho người; người ta lấy cả đọt non và cuống lá mang về,
rửa sạch, nấu canh, chỉ cần cho chín tái, không nên chín nhừ, dùng ăn mát, không
ngứa. Bông hoa cũng ăn được, có thể dùng ăn sống hoặc nấu canh như các đọt non.
Bèo lục bình dùng chữa sưng tấy, viêm đau như sưng bắp chuối bẹn, tiêm bị áp xe,
chín mé, sưng nách, viêm tinh hoàn, viêm khớp ngón tay, viêm hạch bạch huyết
vv.. Thường dùng phần phồng của cuống lá giã nát, thêm muối (5-8g trong 100 g
bèo) đắp, bó. Ở Ấn Độ, hoa được dùng làm thuốc chữa bệnh về đường hô hấp. Nhân
dân ta còn dùng Bèo lục bình làm thuốc chữa các vết thương trên cơ thể bị nhiễm
chất độc hoá học. Dùng lá bèo rửa sạch, thêm muối giã nát, đắp dàn đều lên chỗ
sưng rồi băng lại, phải quấn băng lỏng, đừng để chảy mất nước. Nên đắp cách đêm,
từ tối hôm trước đến sáng hôm sau. Thường chỉ đắp 1-2 lần là hết đau nhức. Trong
khi chữa không phải tiêm hay uống thuốc kháng sinh.
Ở Trung Quốc, người ta dùng toàn
cây làm thuốc trị cảm mạo phát nhiệt, tiểu tiện đỏ đau, phong chẩn, mụn nhọt
sưng đỏ.
Ghi chú:
Gần đây người ta đã phát hiện
các lợi ích khác của Bèo lục bình như:
- Chống ô nhiễm nguồn nước như.
Bèo lục bình làm sạch nước nơi chúng mọc, có khả năng làm giảm bớt ô nhiễm môi
trường. Chỉ cần 1/3 ha bèo, mỗi ngày đủ để lọc 2225 tấn nước bị ô nhiễm các chất
thải sinh học và các hoá chất. Bèo này còn loại được các kim loại nặng độc như
thuỷ ngân, chì, kền, bạc, vàng vv...
- Cung cấp năng lượng: Dùng
vi khuẩn cho bèo lên men; 1kg bèo sẽ cho 0,3m3 khí methan. Bã bèo sau khi lên
men có thể dùng làm phân bón. |
|