|
Báng
Báng, Búng báng, Ðoác, Quang
lang, Đao rừng - Arenga pinnata (Wurmb) Merr, thuộc họ Cau - Arecaceae.
Mô tả:
Cây cao khoảng 7-10m, hay hơn,
đường kính tới 40-50cm. Thân có nhiều bẹ, gốc cuống lá tàn lụi đầy đông đặc. Lá
mọc vòng quanh thân và tập trung ở phía ngọn, toả rộng ra chung quanh; lá kép
lông chim, dài 3-5m có nhiều lá chét xếp hai bên cuống lá; mỗi lá chét dài
0,8-1,2m, rộng 4-5,5cm, mặt trên màu lục, mặt dưới trắng như phấn, gốc lá chét
rộng kéo dài thành đai ôm lấy cuống lá. Cụm hoa hình bông mo to, dài 0,9-1,2m,
chia nhiều nhánh cong xuống. Hoa đực hình nón có 70-80 nhị; hoa cái có 3 lá đài
tồn tại ở quả. Quả hình cầu dài 3,5-5cm, màu vàng nâu nhạt, trong có 3 hạt, hơi
3 cạnh, màu ám nâu, quả tiết chất, nước gây ngứa do có nhiều tinh thể oxalat
calcium hình kim rất nhỏ.
Ra hoa vào mùa hè.
Bộ phận dùng:
Quả, thân và rễ - Fructus,
Caulis et Radix Arengae.
Nơi sống và thu hái:
Báng phân bố ở Ấn Độ,
Mianma, Nam Trung Quốc, các nước Ðông Dương, Malaixia, Philippin, Inđônêxia, mọc
nhiều ở chân núi ẩm. Trong thung lũng núi đá vôi miền trung du, trong rừng thứ
sinh ít cây gỗ lớn ở hầu khắp các vùng đồi núi của nước ta.
Thành phần hoá học:
Theo tài liệu phân
tích năm 1979 của Viện chăn nuôi: Nước 14,8%, protid 2,6%; lipid 1,1%; celluloza
7,6%; dẫn xuất không protein 74,1%; khoáng toàn phần 2,5%, trong đó có calcium,
phosphor.
Tính vị, tác dụng:
Bột Báng có vị ngọt
tính bình; có tác dụng bổ ích cho cơ thể, làm mạnh sức, nhẹ mình. Quả Báng có vị
đắng, tính bình, có tác dụng làm tan máu ứ. Thân cây có tác dụng thanh nhiệt lợi
tiểu.
Công dụng, chỉ định và phối hợp:
Báng đã được
nhân dân ta sử dụng từ thời đại các vua Hùng. Tổ tiên ta đã từng lấy bột trong
thân cây và củ để ăn thay cơm. Ruột thân cây chứa nhiều bột gỡ ra làm bánh ăn
ngon. Cuống cụm hoa chứa nhiều nước, ngọt có thể nấu thành đường ăn hoặc cho lên
men để chế rượu. Nhân hạt luộc chín ăn ngon. Ðồng bào miền núi cũng thường trồng
thêm ở một số nơi để lấy bột ăn thay lương thực khi cần thiết (mỗi cây có thể
cho khoảng 100kg bột). Nõn cây bóc vỏ cứng, thái nhỏ, luộc bỏ nước, dùng nấu
canh ăn hay xào ăn.
Bột Báng cũng được sử dụng
làm thuốc bồi bổ hư tổn suy yếu, ăn lâu thì lưng gối khỏi yếu mỏi. Quả cũng được
dùng sắc uống chữa đau nhức. Dịch của lớp vỏ quả ăn da, độc đối với cá. Thân cây
cũng được dùng sắc uống chữa cảm sốt, rễ dùng trị viêm cuống phổi và làm dễ tiêu
hoá. Ngoài ra những sợi ở bẹ lá còn lại trên cây có thể dùng làm chỉ khâu nón lá
hay bện thừng xe làm dây buộc. |
|