|
Xương
rồng ông
Xương
rồng ông, Xương rồng ba cạnh - Euphorbia antiquorum L., thuộc
họ Thầu dầu - Euphorbiaceae.
Mô
tả: Cây nhỏ mọng nước, cao
1-3m hay hơn, phân nhiều cành. Cành có 3 cạnh lồi. Lá nhỏ, mọng
nước, mọc ở trên cạnh lồi của cành, cuống rất ngắn. Hai lá
kèm biến thành gai. Cụm hoa mọc ở những chỗ lõm của mép cành,
có 1-7 bao chung, họp thành ngù; mỗi bao chung nằm trên 2 lá bắc phân
thùy rộng, các tuyến mật chẻ đôi. Trong bao chung có nhiều nhị
tương ứng với các hoa đực thoái hóa và một nhụy ứng với
một hoa cái. Quả nhỏ màu xanh, có 3 mảnh, mang vòi nhụy tồn
tại.
Cây
ra hoa tháng 3-4.
Bộ
phận dùng: Thân, lá, nhựa, nhị hoa - Caulis, Folium, Latex et Stamen
Euphorbiae Antiquori.
Nơi
sống và thu hái: Loài cổ
nhiệt đới, được trồng làm hàng rào và làm cây cảnh. Trồng
bằng cành. Thu hái thân cành quanh năm, bóc lấy vỏ và bỏ gai, nướng
tới khi có màu nâu hoặc rang với gạo cho tới khi có màu nâu.
Nhựa chích từ cây tươi.
Thành
phần hóa học: Thân Xương
rồng chứa các triterpenoid: taraxerol, taraxerone, friedelan-3a-ol,
friedelan-3b-ol,
epifriedelanol. Còn có các acid citric, tartric và fumaric. Nhựa cây Xương
rồng chứa euphorbol, euphol, b-amyrin.
cycloartenol. Rễ cũng chứa taraxerol.
Tính
vị, tác dụng: Vị đắng, tính hàn, có độc. Thân cây có tác dụng tiêu
thũng, thông tiện, sát trùng; lá có tác dụng thanh nhiệt, hóa
trệ, giải độc hành ứ; nhựa cây có tác dụng tả hạ trục
thuỷ, chống ngứa; nhị hoa có được thanh nhiệt tiêu thũng. Ở
Ấn Độ, cây được xem như có tác dụng xổ, lợi tiêu hóa; vỏ
rễ có tác dụng xổ; nhựa cây có tác dụng xổ, kích thích. Ở
Thái Lan, lõi gỗ khô của cây được xem như có tác dụng hạ
nhiệt, nhựa cây gây xổ.
Công
dụng, chỉ định và phối hợp: Ta
thường dùng cành chữa đau răng, sâu răng và mụn nhọt. Ðể
chữa đau răng người ta lấy cành Xương rồng, cạo bỏ gai đem nướng
nóng rồi giã nát, loại bỏ xơ, thêm muối vào lấy nước ngậm.
Ðể chữa đinh nhọt, viêm mủ da, dùng thân Xương rồng hơ trên
lửa và đắp vào chỗ bị thương.
Ở
Trung Quốc, người ta dùng thân cây trị viêm dạ dày ruột cấp,
sốt rét, đòn ngã, sưng đau. Dùng ngoài trị đinh nhọt, viêm mủ
da và bệnh ecpet mảng tròn. Còn dùng chữa đau răng, sâu răng, làm
thuốc sát trùng, diệt sâu bọ và trị ghẻ. Lá có thể trị
nhiệt trệ gây tiết tả, có thể trị đòn ngã và bệnh bí đại
tiện, tiểu tiện do ứ tích gây ra, chữa đinh sang. Nhựa được dùng
chữa xơ gan cổ trướng và nấm ngoài da. Liều dùng thân 3-6g,
sắc nước uống. Dùng ngoài lấy nhựa bôi, xoa ngoài.
Ở
Ấn Độ, nước sắc thân dùng trị bệnh thống phong; nhựa cây
được dùng trong điều trị bệnh thấp khớp, đau răng, bệnh đau
thần kinh, phù thũng, bại liệt, điếc tai, làm mưng mủ mụn
nhọt và dùng ngoài trị một số bệnh ngoài da.
Ở
Thái Lan, người ta dùng nhựa tươi để trị mụn cóc.
|
|