|
Thương
lục Mỹ
Thương
lục Mỹ - Phytolacca decandra L. (P. americana L.). thuộc
họ Thương lục - Phytolaccaceae.
Mô tả: Cây thảo nhẵn, khoẻ, cao tới 2-3m; thân
và cành dài 12-17cm, rộng 5-7cm, mép hơi lượn sóng, không có lá kèm;
cuống lá rất ngắn; gân phụ nối từng đôi một thành cung tới
gần mép lá. Hoa trắng chuyển sang hồng, nhiều, xếp thành chùm
đơn hình trụ dài 6-16cm, trên những cuống dài ở nách lá. Hoa có
5 lá đài, không có cánh hoa, 10 nhị đính trên một phần phình
dạng vòng, 10 lá noãn mọc vòng dính với nhau. Quả nạc gần hình
cầu với một chỗ lõm ở giữa, đỏ rồi tím đen khi chín, có 10
cánh với 10 ô chứa mỗi ô 1 hạt.
Hoa
tháng 6-10 (11-2).
Bộ phận dùng: Rễ củ - Radix
Phytolaccae, cũng thường gọi là Thương lục. Quả và lá cũng
được dùng.
Nơi sống và thu hái: Loài cây của Bắc
Mỹ, được thuần hoá ở Âu châu và nhiều nước khác. Ở nước
ta, cũng có khi thấy mọc hoang, người ta cũng trồng làm cảnh vì
dáng đẹp, màu sắc cây lá và quả đẹp. Thu hái các bộ phận
quanh năm. Rễ đào về, rửa sạch, thái miếng, phơi khô.
Thành phần hóa học: Quả chứa acid
phytolaccic, tanin, còn có sáp, chất béo, pectin, chất nhầy, glucose,
saccharose, dextrin, các protid, một chất màu khi cho vào nước tạo
ra dung dịch đỏ ánh hay tía, nếu có chất kiềm lại ngả sang màu
vàng và trong môi trường acid lại có màu đỏ; người ta quen gọi
nó là anthocyanosid như các anthocyan của củ cải đường. Rễ
chứa dầu và sáp, nhựa, đường, protid, amide, acid tự do, acid
hữu cơ, tinh bột, oxalat calcium, nitrat (tính theo nitrat kali là
2,408%) cellulose, gôm, chất màu... Không có tanin, có một alcaloid và
phytolaccatoxin; còn có một saponin có vị đắng, chát. Trong lá có
hai glucosid flavnoid là rutoside và ombuoside; còn có vitamin C (150mg
trong 100g lá tươi); lá cũng chứa phytolaccin.
Tính vị, tác dụng: Vị đắng, tính hàn, có
độc (ở tất cả các bộ phận). Rễ có tác dụng gây nôn, xổ,
lợi tiểu, hơi gây ngủ. Lá cũng gây ngủ và giải độc. Dịch cây
có thể gây viêm da.
Công dụng, chỉ định và phối hợp:
Thường dùng ngoài để điều trị bệnh vẩy nến và nấm da đầu
(nấm tóc). Rễ thường dùng làm thuốc lọc máu trong điều trị
bệnh thấp khớp, tạng khớp, béo phì... và gây nôn. Lá giã nát,
sao nóng xát lên những vết ghẻ lở, hắc lào. Ngày nay người ta
dùng lá trị ung thư vú, tử cung. Các chồi non mang lá chưa phát
triển, giống như Măng tây ở Hoa Kỳ được dùng để ăn, nhưng
phải thay nước 2 lần; khi nấu thì không còn có tác dụng điều
trị nữa.
Người
Mỹ da đỏ dùng trà của quả Thương lục Mỹ để trị thấp
khớp, thống phong, lỵ và quả giã ra trị loét vú. Rễ được giã
ra dùng điều trị thấp khớp, đau thần kinh, bỏng, dùng rửa
trị trặc, sưng; lá được chế thuốc làm long đờm, gây nôn và
tẩy nhẹ; dùng giã đắp vết thương, mụt.
|
|