|
Sen
cạn
Sen cạn - Tropaeolum
majus L., thuộc họ Sen cạn - Tropaeolaceae.
Mô tả:
Cây thảo mọc leo hay không, sống hằng năm. Lá giống lá Sen, có
cuống dài dính ở giữa phiến tròn, mép nguyên, mặt trên màu
lục nhạt, mặt dưới mốc mốc. Hoa ở nách lá, màu vàng, vàng
cam hay đỏ; 5 lá đài nhọn, lá đài sau mang một cựa hình nón,
cong ở đầu; 5 cánh hoa bằng nhau; 8 nhị rời nhau; bầu 5 ô, mỗi
ô chứa 1 noãn. Quả lớn cỡ 1cm, có 3 mảnh vỏ, có vách dày và
xốp, chứa 3 hạt.
Hoa tháng 5-9.
Bộ phận dùng:
Toàn cây - Herba Tropaeoli Maji.
Nơi sống và thu hái:
Gốc ở châu Mỹ, từ Chi Lê đến Mêhicô. Ta nhập trồng làm
cảnh; có thể trồng ở vườn, dọc hàng rào, trồng ở ban công.
Có thể thu hái toàn cây quanh năm. Có thể lấy những nụ hoa đầu
tiên, các hoa vừa nở và một số lá làm thuốc và giữ phần còn
lại cho cây sinh trưởng, phát triển bình thường. Ðể lấy hạt,
đợi đến khi quả thật chín, giữ một phần để gieo, còn phần
nhiều thì dự trữ để dùng dần khi cây không có hoa và nụ hoa.
Thành phần hoá
học:
Trong lá Sen cạn tươi có 265mmg% vitamin C, có các tế bào chứa
myrosin và một glucoíid chứa sulfur gọi là glucotropaeolosid, đồng
đẳng dưới của gluconas-turtosid có trong Cải soong, khi thuỷ phân
cho tinh dầu isothioxyanat benzyl. Còn có chất tromalit có tác dụng kháng
khuẩn gram dương và gram âm, nhưng lại giữ nguyên vẹn hệ vi
khuẩn đường ruột. Chất kháng khuẩn tập trung nhiều ở hạt;
đó là một chất có mùi thơm đặc biệt màu hơi vàng, đông đặc
ở 4oC, tan trong nhiều dung môi hữu cơ, nhất là ether ethylic.
Tính vị, tác
dụng:
Sen cạn có vị cay, chua, tính mát, có tác dụng thanh nhiệt giải
độc, mát huyết, cầm máu, lại có tác dụng điều kinh, lợi
tiểu, nhuận tràng, tẩy, trừ ho và chống bệnh scorbut.
Công dụng, chỉ định
và phối hợp:
Hạt Sen cạn được sử dụng làm thuốc từ lâu đời ở Pêru để
chữa viêm bàng quang và viêm phế quản. Kể từ năm 1805, người
ta đã sử dụng Sen cạn để chữa bệnh scorbut (hoại huyết),
chữa các rối loạn của phế quản và phổi (ho, viêm phế quản
mạn tính) do nó có tác dụng giống những loài cây có chứa tinh
dầu có lưu huỳnh như Tỏi. Cây còn dùng chữa sự lười biếng
của thận và các bệnh về bàng quang (viêm bàng quang, viêm bể
thận), chữa tạng bạch huyết, khí thũng, tăng tiết bã nhờn và
chữa vết thương nhiễm khuẩn.
Sen cạn còn
được sử dụng cho người già, cho bệnh già trước tuổi và cho
những người dưỡng bệnh vì nó giúp tái tạo lại sức khoẻ (do
có nhiều acid phosphoric, tinh dầu có S và vitamin C). Hơn nữa, nó hơi
nhuận tràng và giúp cho sự luyện viên thức ăn ở trong ruột. Nó
cũng dùng chữa kinh nguyệt không đều và chống rụng tóc.
ỞTrung
Quốc, người ta dùng toàn cây chữa mắt đỏ sưng đau, thổ
huyết, khạc ra máu, ghẻ lở.
Cách dùng:
Có thể sử dụng Sen cạn dưới nhiều hình thức:
1. Hãm và
sắc uống (để bổ phổi, lợi tiểu, kích thích, kích dục):
Dùng một
nắm nụ hoa hay hạt cho vào trong 1 lít nước; có thể thêm chất
thơm cho át vị của thuốc. Uống liền sau bữa ăn, ngày 2-3 lần.
Có thể sắc 15-30g lá trong 1 lít nước. Nước sắc lá, hoa, quả dùng
súc miệng làm răng bền chắc.
2. Thuốc
xức (chống bệnh rụng tóc và kích thích sức sống của da đầu):
Dùng 100g hoa, lá tươi và hạt Sen cạn cho vào 1 lít nước, đun sôi
15 phút. Có thể thêm ít giọt tinh dầu thơm tuỳ theo sở thích. Dùng
xoa vào tóc và chà mạnh vào da đầu sáng chiều, hoặc nhiều lần
trong ngày.
3. Cồn
thuốc tươi: Ngâm lá tươi với rượu trắng trong 15 ngày, rồi
lọc, đóng chai. Ngày uống 3 lần, mỗi lần 1 thìa cà phê. Có
thể dùng liên tục, dù là khi không có mùa của cây.
4. Nghiền
quả khô hay tươi (nhuận tràng): Dùng quả chín phơi khô hay hạt
với liều 0,6g, nghiền với đường hoặc trộn với mật trước
khi đi ngủ, hoặc dùng 1-3 thìa cà phê quả tươi nghiền với một
lượng đường gấp 3 lần.
5. Dùng ngoài,
lấy cây tươi giã nát đắp.
|
|