|
Địa
hoàng
Địa hoàng -
Rehmannia glutinosa Libosch, thuộc họ Hoa mõm sói - Scrophulariaceae.
Mô
tả:
Cây thảo sống nhiều năm cao 20-30cm, toàn cây có lông mềm và lông
tiết màu tro trắng. Rễ mầm lên thành củ. Lá mọc vòng ở gốc;
phiến lá hình bầu dục, gốc thuôn, đầu tròn, dài 3-15cm, rộng
1,5-6cm, mép khía răng tròn không đều; gân lá hình mạng lưới
nổi rất rõ ở mặt dưới làm cho lá như bị rộp, chia lá thành
những múi nhỏ. Hoa mọc thành chùm trên một cuống chung dài ở đầu
cành. Đài và tràng đều hình chuông, tràng hơi cong dài 3-4cm, mặt
ngoài tím đẫm, mặt trong hơi vàng với những đốm tím 4 nhị,
nhị trường. Quả hình trứng, chứa nhiều hạt nhỏ.
Hoa tháng 4-6,
quả tháng 7-8.

Bộ
phận dùng:
Rễ củ - Radix Rehamanniae, thường gọi là Địa hoàng
Nơi
sống và thu hái: Loài cây của Trung Quốc. Từ năm 1958
nhập trồng ở nước ta, hiện nay được phát triển trồng ở
nhiều nơi từ Bắc đến Nam. Nhân giống bằng những mầm rễ,
mỗi mầm dài 1-2cm. Sau khi trồng 6 tháng rưỡi có thể thu hoạch.
Mỗi năm có thể thu hoạch hai vụ vào các tháng 2-3 và 8-9. Chọn
ngày nắng ráo để đào củ. Củ Địa hoàng tươi hình thoi hay hình
trụ cong queo, dễ bẻ gẫy; mặt ngoài màu vàng đỏ, có những vùng
thắt lại chia củ thành từng khoanh. Trên các rãnh có vết của
mầm. Tuỳ theo cách chế biến, ta có Sinh địa hoàng và Thục địa
hoàng.
- Sinh địa:
Củ Địa hoàng đã được chọn lựa, rồi rải vào lò sấy; sấy
trong 6-7 ngày cho khô đều.
- Thục địa:
Củ Địa hoàng lấy về, ngâm nước, cạo sạch đất. Lấy những
củ vụn nát nấu lấy nước, nước đó tẩm những củ đã được
chọn rồi đem đồ, đồ xong lại phơi, phơi khô lại tẩm. Tẩm và
đồ như vậy được 9 lần, khi màu thục đen nhánh là được. Khi
nấu không dùng nồi kim loại như đồng, sắt. Tuỳ từng nơi, người
ta áp dụng cách chế biến có khác nhau, có thể dùng rượu nấu
rồi lại dùng nước gừng ngâm, lại nấu tiếp tới khi có thục
màu đen. Do cách chế biến mà tính chất của Sinh địa và Thục
địa có khác nhau.
Thành
phần hoá học: Trong rễ có catalpol, mannit, rehmannin,
glucose và một ít caroten. Còn có tới 15 acid amin và D-glucozamin,
acid phosphorie và các cacbohydrat, chủ yếu là stachyoza; còn có chất
campesterol.
Tính
vị, tác dụng: Địa hoàng tươi có vị ngọt, đắng, tính
hàn; có tác dụng thanh nhiệt, mát máu. Sinh địa hoàng (Củ địa
hoàng khô) có vị ngọt, tính hàn, có tác dụng tư âm dưỡng
huyết. Thục địa hoàng có vị ngọt, mùi thơm, tính hơi ôn; có tác
dụng nuôi thận, dưỡng âm, bổ huyết, làm đen râu tóc.
Người ta đã
chứng minh được tác dụng chống đường huyết, tác dụng cầm máu,
lợi tiểu, kháng sinh của Địa hoàng.
Công
dụng, chỉ định và phối hợp:
Sinh địa dùng
chữa bệnh huyết hư phát nóng, thổ huyết, băng huyết, chảy máu
cam, kinh nguyệt không đều, động thai; bệnh thương hàn, ôn
dịch, phát ban chẩn, cổ họng sưng đau, huyết nhiệt, tân dịch
khô. Ngày dùng 8-16g, có thể dùng đến 40g.
Thục địa dùng trị
thận âm suy sinh ra các chứng nóng âm ỉ, bệnh tiêu khát (đái
đường), đau họng, khí suyễn (khó thở), hư hoả bốc lâm sinh
xuất huyết, làm sáng mắt, điều kinh, bổ huyết, sinh tinh, làm
cho cơ thể tráng kiện. Ngày dùng 12-40g.
|
|