|
Ðậu
biếc
Ðậu biếc -
Clitoria ternatea L., thuộc họ Ðậu - Fabaceae.
Mô
tả:
Cây thảo leo. Thân và cành mảnh có lông. Lá kép lông chim lẻ, có
5-7 lá chét hình trái xoan, có lông rải rác ở cả hai mặt. Hoa màu
xanh lơ hoặc trắng, mọc đơn độc ở nách lá; đài hình ống; cánh
cờ có viền giữa màu da cam; nhị 10, xếp 2 bó; bầu có lông.
Quả màu hung có lông, hình dải; hạt 5-10, hình thận dẹt, có
những chấm màu lục và màu đen.
Cây ra hoa tháng
6-8, quả tháng 9-11.

Bộ
phận dùng:
Rễ, hạt và lá - Radix, Semen et Folium Clitoriae Ternatae.
Nơi
sống và thu hái: Loài liên nhiệt đới, mọc hoang và cũng
được trồng ở các vườn gia đình để làm cảnh và lấy quả.
Thu hái các bộ phận của cây quanh năm.
Thành
phần hoá học: Hạt chứa một chất dầu cố định và
một chất nhựa đắng. Hạt và vỏ rễ cũng đều chứa tanin. Lá
chứa g-lactose, aparajitin. Thứ có hoa xanh và hoa
trắng đều chứa một este và một chất nhựa glycosid. Hạt chứa
các acid amin như leucin, isoleucin, valin, adenin, glycin, arginin, acid
glutamic, acid aspartic và tyrosin.
Tính
vị, tác dụng: Rễ có vị chát, đắng, có tác dụng
lợi tiểu, nhuận tràng, gây xổ, làm dịu và săn da. Vỏ rễ cũng
lợi tiểu và nhuận tràng. Hạt xổ và khai vị. Lá tiêu viêm,
giảm đau.
Công
dụng, chỉ định và phối hợp: Rễ dùng giải nhiệt,
chữa bệnh ỉa chảy của trẻ em. Ở Inđônêxia, dùng trị bệnh
lao phổi, đau ngực, ho và viêm lở ngoài da. Hạt thường dùng làm
thuốc khai vị. Ở Philippin, người ta nghiền hạt và trộn với
bitartrat kalium liều gấp đôi sẽ gây xổ có hiệu quả nhanh và đảm
bảo vô hại. Lá dùng đắp chữa rò, mụn mủ, bướu. Dịch lá dùng
chữa viêm mắt. Ở Ấn Độ, người ta dùng cây trị nọc rắn
cắn.
|
|