|
Dưa
bở
Dưa
bở, Dưa nứt, Dưa hồng, Dưa gang - Cucumis
melo L., thuộc họ Bầu bí - Cucurbitaceae.
Mô tả:
Cây thảo hằng năm có thân mọc bò, phủ lông ngắn; tua cuốn đơn.
Lá lớn, hình tim ở gốc, gần hình tròn hoặc hình thận, có 3 góc
hay 3-7 thuỳ thường nhỏ, tròn, tù, có răng, hai mặt lá có lông
mềm, trên mặt dưới cũng có lông, cuống lá có lông ngắn cứng.
Hoa màu vàng; hoa đực xếp thành bó, hoa cái mọc riêng lẻ. Quả
đa dạng, hình dáng và màu sắc khác nhau tuỳ theo từng thứ,
phần nhiều có vỏ vàng sọc xanh, nhẵn bóng hoặc có lông tơ
mềm; thịt màu vàng ngà, gồm chất bột mịn, bở, mềm, mùi thơm;
ruột quả có nước dịch màu vàng, vị ngọt mát; màng hạt màu
trắng.
Hoa
quả tháng 7-8.
Bộ phận dùng:
Hạt - Semen Melo, thường gọi là
Điềm qua tử. Quả dưa cũng thường được sử dụng.
Nơi sống và thu hái:
Dưa bở được trồng khắp các vùng nhiệt đới và ôn đới. Ở
nước ta, nhân dân trồng dưa bở ở các bãi cát để lấy quả ăn.
Có những thứ khác nhau trong đó có dưa Gang (var.
conomon (Thunb.) Mak.) cũng được trồng.
Thành phần hoá học:
Người ta đã phân tích trong quả dưa có các thành phần sau: Nước
95%, protid 0,60%, lipid 0,11%; glucid 3,72%; cellulose 0,33%, tro 0,1%, đường
1,05-6% và các vitamin A (25-30000 đơn vị), B (0,03mg), C (1,5-2mg); các
chất khoáng (P: 30mg, Ca: 20mg, Fe: 0,4mg). Hạt chứa globulin, glutein,
đường galactose và nhiều chất béo.
Tính vị, tác dụng:
Hạt Dưa có vị ngọt, tính hàn; có tác dụng tán kết tiêu ứ,
thanh phế, nhuận tràng. Quả Dưa có vị ngọt, tính trơn lạnh, hơi
độc; có tác dụng giải khát, trừ phiền nhiệt, thông khí, lợi
tiểu tiện, phòng tránh nắng mùa hè. Cuống Dưa có vị đắng, tính
lạnh, có độc; có tác dụng gây nôn và thông đại tiện.
Công dụng, chỉ định và phối
hợp: Dưa bở lúc còn non và Dưa
gang đều dùng làm rau ăn sống như Dưa chuột hoặc dùng nấu canh,
muối dưa, ngâm giấm; quả dưa bở chín dùng ăn với đường để
tráng miệng. Hạt dưa dùng chữa kết tụ sinh máu mủ ở trường
vị, ho khan, viêm ruột thừa, đại tiện táo bón; ăn 10g, ngày 2
lần. Quả dưa về giá trị dinh dưỡng thì không cao, dùng làm rau
ăn thì mát, gây ăn ngon miệng, nhuận tràng, lợi tiểu. Thường
được chỉ dẫn dùng khi bệnh lao chứng ít nước tiểu, thống
phong, thấp khớp, mất ngủ, táo bón, trĩ, sỏi niệu đạo và
giữ da mặt. Những người bị bệnh đái đường, viêm ruột không
nên dùng. Có thể ăn quả tươi đầu bữa ăn, có thêm muối và
hạt tiêu lại làm cho dễ tiêu hoá và bớt nhuận tràng. Dùng ngoài
lấy thịt quả già đắp lên các vết bỏng nhẹ, đau mắt đỏ và
chỗ viêm tấy. Để làm thuốc rửa mặt do da bị khô, dùng dịch
tươi của quả pha với nước cất và dịch lá bạc hà để rửa
mặt vào buổi tối. Cuống dưa chữa sốt rét phát cuồng, sốt rét
cơn, dùng 4-8g sắc uống thì mửa ra đờm, còn dùng chữa đại
tiện bí, lấy 7 cuống dưa tán nhỏ, bọc bông nhét vào hậu môn.
Nhiều
bộ phận khác cũng được dùng. Hoa dùng chữa đau tim và ho nấc,
sắc uống với liều 8g. Lá có tác dụng làm tan máu ứ, chữa bị
thương, sai khớp, gãy xương, dùng 20g tán nhỏ uống với rượu
hay sắc uống. Tua dưa dùng chữa con gái mất kinh, phối hợp với
Sử quân tử và Cam thảo mỗi vị 20g tán nhỏ, uống mỗi lần 8g
với rượu.
|
|