|
Cà
rốt
Cà
rốt - Daucus carota L., ssp
sativus Hayek., thuộc họ Hoa tán - Apiaceae.
Mô
tả: Cà rốt là loại cây
thảo sống 2 năm. Lá cắt thành bản hẹp. Hoa tập hợp thành tán
kép; trong mỗi tán, hoa ở chính giữa thì không sinh sản và màu tía,
còn các hoa sinh sản ở chung quanh thì màu trắng hay hồng. Hạt Cà
rốt có vỏ gỗ và lớp lông cứng che phủ.
Bộ
phận dùng: Củ và quả - Radix
et Fructus Carotae.
Nơi
sống và thu hái: Cà rốt là
một trong những loại rau trồng rộng rãi nhất và lâu đời nhất
trên thế giới. Người Lã Mã gọi Cà rốt là nữ hoàng của các
loại rau. Cà rốt cũng được trồng nhiều ở nước ta. Hiện nay,
các vùng rau của ta đang trồng phổ biến hai loại Cà rốt: một
loại có củ màu đỏ tươi, một loại có củ màu đỏ ngả sang màu
da cam.
-
Loại vỏ đỏ (Cà rốt đỏ) được nhập trồng từ lâu, nay nông
dân ta tự giữ giống; loại cà rốt này có củ to nhỏ không đều,
lõi to, nhiều xơ, hay phân nhánh, kém ngọt.
-
Loại vỏ màu đỏ ngả sang màu da cam là cà rốt nhập của Pháp
(Cà rốt Tim tôm) sinh trưởng nhanh hơn loài trên; tỷ lệ củ trên
80%, da nhẵn, lõi nhỏ, ít bị phân nhánh nhưng củ hơi ngắn, mập
hơn, ăn ngon, được thị trường ưa chuộng.
Thành
phần hóa học: Cà rốt là
một trong những loại rau quý nhất được các các thầy thuốc trên
thế giới đánh giá cao về giá trị dinh dưỡng và chữa bệnh đối
với con người. Cà rốt giàu về lượng đường và các loại
vitamin cũng như năng lượng. Các dạng đường tập trung ở lớp
vỏ và thịt nạc của củ; phần lõi rất ít. Vì vậy củ cà
rốt có lớp vỏ dày, lõi nhỏ mới là củ tốt. Trong 100g ăn được
của Cà rốt, theo tỷ lệ % có: nước 88,5; protid 1,5; glucid 8,8;
cellulose 1,2; chất tro 0,8. Muối khoáng có trong Cà rốt như kalium,
calcium, sắt, phosphor, đồng, bor, brom, mangan, magnesium, molipden...
Đường trong Cà rốt chủ yếu là đường đơn (như fructose,
glucose) chiếm tới 50% tổng lượng đường có trong củ, là loại
đường dễ bị oxy hoá dưới tác dụng của các enzym trong cơ
thể; các loại đường như levulose và dextrose được hấp thụ
trực tiếp.
Trong
Cà rốt có rất nhiều vitamin C, D, E và các vitamin nhóm B; ngoài ra,
nó còn chứa nhiều chất caroten (cao hơn ở Cà chua); sau khi vào cơ
thể, chất này sẽ chuyển hoá dần thành vitamin A, vitamin của sự
sinh trưởng và tuổi trẻ.
Từ
hạt Cà rốt, người ta chiết xuất được chất Docarin (còn gọi
là cao hạt Cà rốt).
Tính
vị, tác dụng: Củ Cà rốt
vị ngọt cay, tính hơi ấm, có tác dụng hạ khí bổ trung, yên ngũ
tạng, tăng tiêu hoá, làm khoan khoái trong bụng. Hạt có vị đắng
cay, tính bình, có tác dụng sát trùng, tiêu tích. Cà rốt có các tính
chất: bổ, tiếp thêm chất khoáng, trị thiếu máu (nó làm tăng lượng
hồng cầu và huyết cầu tố) làm tăng sự miễn dịch tự nhiên,
là yếu tố sinh trưởng kích thích sự tiết sữa, làm cho các mô
và da trẻ lại. Nó còn giúp điều hoà ruột (chống ỉa chảy và
đồng thời nhuận tràng), chống thối và hàn vết thương ở
ruột, lọc máu, làm loãng mật, trị ho, lợi tiểu, trị giun và hàn
liền sẹo.
Công
dụng, chỉ định và phối hợp:
Củ Cà rốt được dùng làm thuốc uống trong trị suy nhược
(rối loạn sinh trưởng, thiếu chất khoáng, còi xương, sâu răng),
trị thiếu máu (một số trường hợp thiếu thị lực) ỉa chảy
trẻ em và người lớn, bệnh trực tràng coli, viêm ruột non kết,
bệnh đường ruột, táo bón, loét dạ dày tá tràng, xuất huyết
dạ dày ruột, bệnh phổi (ho lao, ho gà mạn tính, hen) lao hạch,
thấp khớp, thống phong, sỏi, vàng da, xơ vữa động mạch, suy gan
mật, giảm sữa nuôi con, bệnh ngoài da, ký sinh trùng đường
ruột (sán xơ mít), dự phòng các bệnh nhiễm trùng và thoái hoá,
đề phòng sự lão hoá và các vết nhăn... Dùng ngoài chữa vết thương,
loét, bỏng, đinh nhọt, cước, nứt nẻ, bệnh ngoài da (eczema,
nấm, chốc lở tại chỗ) dùng đắp apxe và ung thư vú, ung thư
biểu mô. Hạt dùng trị giun đũa, giun kim, bệnh sán dây, đau
bụng giun, trẻ em cam tích.
Cách
dùng: Người ta thường sử dụng Cà rốt dưới dạng tươi để
ăn sống (làm nộm, trộn dầu giấm), xào, nấu canh, hầm thịt.
Hoặc dùng Cà rốt ép lấy dịch, phối hợp với các loại rau
quả khác làm nước giải khát, hoặc nước dinh dưỡng. Để
uống trong, người ta dùng dịch Cà rốt tươi (ngày dùng 50-100g sáng
và chiều, tốt nhất vào sáng sớm lúc đói uống 1 cốc). Cũng dùng
dịch tươi làm thuốc trị ho, bệnh về đường hô hấp, hen,
khản tiếng. Củ Cà rốt được dùng phổ biến trong các thang
thuốc bổ Đông y, và nấu xúp cho trẻ em bị ỉa chảy ăn thay
sữa dưới hình thức ẩm thực trị.
Đơn
thuốc:
1.
Chữa sau khi ốm kém ăn, uể oải, suy yếu, dùng củ Cà rốt khô,
thái mỏng, tẩm mật sao 30g, cây Vú bò thái miếng phơi khô, tẩm
mật sao, Hoài sơn sao, mỗi vị 24g. Mạch môn chẻ đôi bỏ lõi
sao, Ngưu tất, Thổ tam thất (Nam truật) mỗi vị 12g, sắc uống.
Uống thuốc có cà rốt thì ăn ngon miệng, da thịt được tươi
nhuận hồng hào, đại tiện điều hoà, phân thành khuôn mà không
táo bón (Lê Trần Đức).
2.
Ỉa chảy trẻ em, dùng bột Cà rốt khô 50g, hoặc Cà rốt tươi
500g, nước 1 lít, nấu thành xúp. Những ngày đầu bị ỉa chảy,
mỗi ngày ăn 100-150ml trên 1kg thân nặng, ăn làm 6 bữa (nếu
truyền hoặc uống nước thì bớt lượng súp Cà rốt tương
ứng); những ngày sau cho ăn kèm với sữa mẹ, trọng lượng xúp cà
rốt giảm dần (Lê Minh).
3.
Giun sán: Bột Cà rốt 12-18g, dùng trong ngày (Lê Minh).
|
|