|
Chùm
ngây
Chùm
ngây - Moringa oleifera Lam (M. pterygosperma Gaertn), thuộc
họ Chùm ngây - Moringaceae.
Mô
tả:
Cây gỗ nhỏ, cao tới 10m. Lá kép thường lá ba lần lông chim, có
6-9 đôi lá chét hình trứng mọc đối. Hoa trắng có cuống, hơi
giống hoa dâu, mọc thành chuỳ ở nách lá, có lông tơ; lá bắc hình
sợi. Quả nang treo, có 3 cạnh, dài 25-30cm, hoa gồ lên ở chỗ có
hạt, khía rãnh dọc. Hạt màu đen, to bằng hạt đậu Hà Lan, tròn,
có 3 cạnh và 3 cánh màu trắng dạng màng.
Cây
ra hoa vào tháng 1-2.
Bộ
phận dùng:
Rễ và toàn cây - Radix et Herba Moringae.
Nơi
sống và thu hái:
Cây nguyên sản ở Ấn Độ, được trồng ở nhiều nước nhiệt
đới. Thường trồng ở các tỉnh phía nam nước ta từ Quảng Nam-
Ðà Nẵng qua các tỉnh Nam Trung Bộ đến tận Kiên Giang (Phú
Quốc), trong các vườn gia đình làm rau ăn. Người ta thu hái các
bộ phận của cây quanh năm.
Thành
phần hoá học:
Vỏ rễ chứa gôm và 2 alcaloid là moringin và moringinin; moringin tương
đồng với benzylanin cùng có trong vỏ thân, trong vỏ thân còn có
(- sitosterol. Toàn cây chứa một lacton gọi là pterygospermin, một
chất kháng khuẩn có tác dụng đối với vi khuẩn gram + và gram -
và cả vi khuẩn ưa acid. Hoa chứa base vô định hình. Hạt chứa
33-38% một thứ dầu không màu, vị dịu, lâu hỏng, dùng ăn được
và dùng trong hương liệu để định hướng một số hoa.
Tính
vị, tác dụng:
Rễ có tính kích thích, chuyển máu, gây trung tiện, làm dễ tiêu
hoá, trợ tim và bổ tuần hoàn, làm dịu; có tác dụng tốt đối
với thần kinh và gây sẩy thai cũng như vỏ cây. Quả có tác
dụng làm giảm đau; hoa kích thích và kích dục, hạt làm dịu cơn
đau. Gôm từ thân cây chảy ra, màu trắng cũng có tác dụng làm
giảm đau nhức.
Công
dụng, chỉ định và phối hợp: Nhiều bộ phận của cây như quả, lá
non, hoa, các nhánh non đều có thể dùng làm rau ăn nhưng phải
nấu chín. Ở Lào, người ta cũng dùng các nhánh non có hoa và quả
xanh dùng nấu ăn như rau. Ở Campuchia, người ta dùng lá và quả vào
việc nấu món somlo. Lá cây có tính kích thích tiêu hoá và cây có
tính lợi tiểu nên cũng được sử dụng trong điều trị bệnh
lậu. Rễ là một bộ phận được sử dụng nhiều làm thuốc ở
nhiều nước. Tại Ấn Độ, rễ được dùng như là chất kích thích
trong các cơn đau do bị liệt và sốt từng cơn, dùng trong động
kinh, là chất chuyển máu trong bệnh liệt và thấp khớp mạn tính,
như là trợ tim và bổ cho tuần hoàn, cũng dùng chế dạng rượu
thuốc thường dùng trong khi ngất, choáng váng, suy nhược thần
kinh, đau co thắt ruột, icteria và sự đầy hơi. Rễ và vỏ cây cũng
dùng gây sẩy thai. Vỏ rễ dùng như thuốc chườm nóng làm dịu cơn
co thắt. Ở Campuchia, vỏ cây được dùng làm thuốc cho phụ nữ
sau khi sinh đẻ uống như là thức uống chóng lại sức. Ở Thái
Lan, vỏ thân được dùng làm thuốc thông hơi. Quả được dùng
trị bệnh đau gan và tỳ, đau khớp, sài uốn ván và chứng liệt.
Hạt dùng trị bệnh hoa liễu, dầu từ hạt dùng đắp ngoài trị
bệnh thấp khớp. Gôm nhựa từ cây chảy ra, dùng chữa đau răng;
phối hợp với dầu vừng làm chế phẩm nhỏ tai trị bệnh đau
tai.
|
|