|
Cam
chua
Cam
chua, Cam đắng - Citrus aurantium L., thuộc họ Cam - Rutaceae.
Mô
tả: Cây gỗ cao 4-5m hay hơn,
phân nhánh nhiều, cành có gai dài và nhọn. Lá hình trái xoan
nhọn, nguyên, hơi dai, bóng, phiến dài 5-10cm, rộng 2,5-5cm, có đốt
trên cuống, nở thành một cánh rộng hay hẹp tuỳ thứ. Hoa màu
trắng họp thành xim nhỏ ở nách lá. Quả hình cầu kích thước
trung bình có đường kính 6-8cm, khi chín màu da cam, mặt ngoài sù sì.
Ở var. amara Engl. hay Cam đắng,
cuống lá có cánh rộng, quả màu da cam hay đỏ da cam, có trung tâm
rỗng, vỏ dính, nạc chua.
Bộ
phận dùng: ở Trung Quốc, người
ta dùng quả chưa chín của loài Citrus
aurantium L., mà họ gọi là Toan chanh làm thuốc gọi là Chỉ
thực, và quả của thứ Cam đắng - Fructus
Citri Aurantii Amarae, mà họ gọi là Đại đại hoa Chỉ xác.
Bởi lẽ hiện nay, người ta dùng tên Citrus
aurantium L. nói chung để chỉ Cam đắng, nên trong Dược điển
Trung Quốc người ta ghi Chỉ thực là Fructus
Aurantii lmmaturus và Chỉ xác là Fructus
Aurantii. Người ta còn dùng cả hoa, lá và vỏ quả.
Nơi
sống và thu hái: Loài cây
của châu Á (Trung Quốc, Ấn Độ, Việt Nam), mọc tự nhiên và cũng
được trồng. Để có Chỉ thực, người ta hái quả lúc còn non,
hoặc nhặt những quả đã rụng xuống dưới gốc cây, đen phơi
hay sấy khô trong nắng vừa. Muốn có Chỉ xác, người ta hái quả
vào lúc gần chín, còn xanh, đem bổ đôi rồi phơi hay sấy khô.
Hoa lá và chồi non thường được hái dùng tươi.
Thành
phần hóa học: Trong Chỉ
thực có hesperidin, neohesperidin, nobiletin, auranetin, aurantiamarin,
nuringin, synephrine, limonin. Trong Chỉ xác có linalyl acetat, nerolyl
acetat, geranyl acetat, hesperidin và neohesperidin. Ở Pháp, người ta cho
biết thành phần chính trong lá là hesperidin, trong hoa là tinh dầu và
trong quả có các acid hữu cơ, các vitamin.
Tính
vị, tác dụng: Chỉ thực có
vị the đắng, mùi thơm, tính hơi hàn, có tác dụng tiêu tích, hạ
khí, trừ đờm, tiêu thực (sao giòn) cầm máu (sao tồn tính). Chỉ
xác có vị the đắng, mùi thơm, tính hơi hàn, có tác dụng thông
khí trệ, thông trường vị, trừ đờm, tiêu thực. Lá, hoa, vỏ
quả có tính chất an thần, chống co thắt, gây ngủ nhẹ, lợi tiêu
hoá, trừ giun, hạ nhiệt, giảm biên độ co bóp tim. Người ta
nhận thấy vỏ cam đắng có tác dụng đối với sự tăng độ
acid dịch vị.
Công
dụng, chỉ định và phối hợp:
Ở Pháp, người ta dùng chữa trạng thái thần kinh dễ kích thích,
đánh trống ngực, nuối hơi, bệnh thần kinh, mất ngủ, trằn
trọc ban đêm, động kinh, đau nửa đầu, ho do thần kinh. Vỏ cam
được dùng làm thuốc bổ dạ dày và giúp ăn ngon miệng; cũng dùng
chữa ho. Nói chung, người ta sử dụng lá làm thuốc giảm đau,
dễ tiêu hoá, tinh dầu của vỏ dùng trong hương liệu; hoa được
dùng cất nước hoa và dùng chữa bệnh co thắt và làm thơm
thuốc; vỏ dùng làm thuốc bổ đắng, dễ tiêu và thơm dùng chế
nước hoa. Chỉ xác, Chỉ thực được dùng làm thuốc giúp tiêu hoá,
ăn uống không tiêu, đầy hơi tích trễ, chữa ho, trừ đờm, làm
thuốc đổ mồ hôi, lợi tiểu tiện.
Cách
dùng: Hãm hoa; cho một thìa xúp hoa vào một tách nước sôi để
trong 10 phút. Hãm lá; cho 10-20g lá vào 1 lít nước sôi hoặc 3-4 lá
vào một tách nước sôi, hãm trong 15 phút. Vỏ quả dùng với
liều 45g sắc uống. Ta thường dùng Chỉ xác, Chỉ thực với
liều 6-12g, dưới dạng thuốc sắc hay ngâm rượu, thường dùng
phối hợp với các vị thuốc khác.
Đơn
thuốc: Chữa táo bón: Dùng
Chỉ thực 20g, Bồ kết 20g, hai vị tán khô, làm thành viên bằng
hạt ngô, ngày uống 10 viên vào buổi tối trước khi đi ngủ (Dược
liệu Việt Nam).
Ghi
chú: Ở Việt Nam, quả của
nhiều loài Citrus được dùng làm Chỉ xác và Chỉ thực, ví dụ
như quả Bưởi non chẻ đôi phơi khô làm Chỉ xác. Còn ở Trung
Quốc, người ta cũng dùng quả non của cây Cam hay Cam chanh làm vị
thuốc Chỉ thực.
|
|