|
Bông
ổi
Bông
ổi, Trâm ổi, Thơm ổi, Hoa ngũ sắc, Tứ quý - Lantana camara
L., thuộc họ Cỏ roi ngựa - Verbenaceae
Mô tả: Cây nhỏ, cao
tới 1,5m-2m hay hơn. Thân có gai; cành dài, hình vuông, có gai ngắn
và lông ráp. Lá mọc đối, khía rạng, mặt dưới có lông. Cụm
hoa là những bông co lại thành đầu giả mọc ở nách các lá ở
ngọn. Hoa lưỡng tính, không đều, thoạt tiên vàng dợi rồi vàng
kim, vàng tươi, sau cùng đỏ chói, ít khi toàn hoa trắng. Quả
bạch hình cầu, nằm trong lá dài, khi chín màu đen; nhân gồm 1-2
hạt cứng, xù xì.
Bộ phận dùng: Lá, hoa
và rễ - Folium, Flos et Radix Lantanae.
Nơi sống và thu hái: Cây
gốc ở Trung Mỹ, được nhập trồng làm cảnh, nay phổ biến
rộng rãi, mọc hoang ở các bãi đất trống, đồi núi, ven bờ
biển. Các bộ phận của cây thu hái vào mùa khô, phơi hay sấy khô.
Cũng có khi dùng tươi.
Thành phần hoá học: Lá
chứa 0,2% tinh dầu; ở hoa khô chỉ có 0,07%. Tinh dầu có 8% terpen
bicyclic và 10-12% L-a-phelandren. Tinh dầu bông ổi Ấn Độ chứa
cameren, isocameren và micranen. Trong vỏ có 0,08% lantanin, là một
alcaloid. Lá trong thời kỳ có hoa chứa 0,31-0,68% lantanin, còn có
lantaden.
Tính vị, tác dụng: Lá
có vị đắng, hôi, tính mát, hơi có độc, có tác dụng hạ sốt,
tiêu độc, tiêu sưng. Hoa có vị ngọt, tính mát, có tác dụng
cầm máu. Rễ có vị dịu, tính mát, có tác dụng hạ sốt, tiêu
độc, giảm đau. Người ta biết lantanin, cũng như quinin, làm giảm
sự tuần hoàn và hạ nhiệt.
Công
dụng, chỉ định và phối hợp: Rễ thường dùng trị sốt lâu không
dứt, quai bị, phong thấp đau xương, chấn thương bầm giáp. Hoa dùng
trị lao với ho ra máu và hạ huyết áp. Liều dùng 30-60g, dạng
thuốc sắc. Lá dùng ngoài đắp vết thương, vết loét hoặc dùng
để cầm máu; cũng dùng trị ghẻ lở, viêm da, các vết chàm và dùng
chườm nóng trị thấp khớp. Thường dùng tươi giã đắp ngoài
hay nấu nước để rửa. Hoa dùng làm thuốc trị ho với liều 12g,
dạng thuốc sắc hay hâm nóng hoặc chế xi rô.
Đơn thuốc:
1.
Viêm da, eczema, tinea, mụn nhọt, nấu lá tươi để rửa ngoài.
2.
Chấn thương bầm giập, vết thương chảy máu, giã lá tươi đắp
ngoài. Hoặc dùng 30g lá khô, với 10g gừng khô tán bột rắc lên
vết thương ngày một lần.
3.
Ho ra máu và lao phổi, dùng hoa khô 6-10g nấu nước uống.
|
|