|
Dứa
gỗ
Dứa
gỗ - Pandanus odoratissimus L.f. (P.
tectorius Park. ex Z.), thuộc họ Dứa dại - Pandanaceae.
Mô tả:
Cây nhỏ, phân nhánh ở ngọn, cao 2-4m, với rất nhiều rễ phụ
trong không khí thòng xuống đất. Lá ở ngọn các nhánh, hình
dải, dài 1-2m, trên gân chính và 2 bên mép có gai nhọn. Bông mo đực
ở ngọn cây, thõng xuống, với những mo màu trắng, rời nhau. Hoa
rất thơm, bông mo cái đơn độc, gồm rất nhiều lá noãn. Cụm
quả tạo thành một khối hình trứng dài 16-22cm, có cuống màu da
cam, gồm những quả hạch có góc, xẻ thành nhiều ô.
Ra
hoa quả vào mùa hè.
Bộ phận dùng:
Rễ, quả, hạt và lá - Radix, Fructus, Semen et Folium Pandani.
Nơi sống và thu hái:
Loài phân bố rộng trên các bờ biển của Ấn Độ, Xri Lanca,
Mianma, Thái Lan, Campuchia, Lào, Việt Nam, Trung Quốc (Hồng Kông, Đài
Loan), Nam quần đảo Ryu Kyu Malaixia, Micronesia và Philippin. Dứa dại
thường phân bố trên các bãi ẩm có cát, trong các rú bụi ven
biển, dọc bờ ngòi nước mặn; rừng ngập mặn, cũng phân bố
trong đất liền, ở vĩ độ thấp, dọc theo các sông, khắp nước
ta, từ Hoà Bình, Quảng Ninh, Nam Hà tới Quảng Nam-Đà Nẵng, Khánh
Hoà, Bình Thuận, Đồng Nai, Kiên Giang. Rễ thu hái quanh năm; thu các
rễ chưa bám đất tốt hơn là rễ ở dưới đất, đem về thái
mỏng, phơi hay sấy khô dùng dần. Thu hái quả vào mùa đông dùng
tươi hay phơi khô.
Thành phần hoá học:
Hạt phấn hoa và lá bắc rất thơm, khi chưng cất, người ta thu
được nước thơm và hương liệu. Các phần ngoài của hoa (lá
bắc) chứa tinh dầu mà 70% là methyl ether của b-phenylethyl
alcohol. Hoa nở chứa 0,1-0,3% tinh dầu chứa benzyl benzoate, benzyl
salicylate, benzyl acetate, benzyl alcohol, geraniol, linalool, linalyl acetate,
bromostyren, guaiaco,l phenylethyl alcohol và aldehyd.
Tính vị, tác dụng:
Dứa dại có vị ngọt và nhạt, tính mát, có tác dụng làm ra mồ
hôi, giải nhiệt, tiêu viêm, lợi tiểu. Ở Ấn Độ, người ta còn
dùng lá và tinh dầu từ lá bắc. Lá có vị đắng, cay, thơm, tinh
dầu có tính kích thích, sát trùng. Ở Thái Lan, rễ được xem như
hạ nhiệt, làm long đờm, lợi tiểu; còn cụm hoa đực là thuốc
trợ tim.
Công dụng, chỉ định và phối
hợp: Rễ dùng trị 1. Cảm
mạo phát sốt; 2. Viêm thận, thuỷ thũng, nhiễm trùng đường
tiết niệu; 3. Viêm gan, xơ gan cổ trướng; 4. Viêm kết mạc mắt.
Liều dùng 15-30g, dạng thuốc sắc. Quả trị lỵ và ho. Dùng
30-90g, dạng thuốc sắc. Hạt dùng trị viêm tinh hoàn, trĩ. Dùng
30-60g, dạng thuốc sắc.
Ở
Ấn Độ, lá được dùng trị bệnh phong, phó đậu, giang mai, ghẻ
và bệnh bạch bì. Tinh dầu lá dùng trị bệnh đau đầu và thấp
khớp. Cũng cần lưu ý là lá dứa gỗ có thể dùng lấy sợi
dệt. Hạt có thể ăn được, cùi quả nếu nấu kỹ để loại
bỏ các tinh thể oxalat Ca, có thể dùng ăn. Còn hương liệu từ
hoa và lá bắc, nếu thêm dầu dừa (hoặc sáp ong trong và dầu cây
Ươi) dùng làm mỹ phẩm bôi môi. Có khi người ta còn dùng chồi
non ở ngọn làm rau ăn như nõn dừa; phần gốc trắng và mềm
của lá dứa gỗ cùng ăn được.
Đơn thuốc:
1.
Lợi tiểu, có thể sắc chung với rễ Dứa.
2.
Chữa tiêu vàng, nóng gắt; dùng rễ Dứa gỗ 15g, Rau Dừa nước
15g, Râu ngô 10g, vỏ Quít 5g. Đổ 500ml nước, sắc còn 150ml, ngày
uống 1 thang (An Giang).
3.
Thuốc bổ và dễ tiêu hoá cho phụ nữ thai sản; dùng rễ Dứa
gỗ phối hợp với vỏ cây Chòi mòi, nấu nước uống.
4.
Viêm thận phù thũng; dùng rễ Dứa gỗ 30-60g nấu với thịt ăn
(Trung Quốc).
5.
Viêm tinh hoàn: dùng hạt Dứa gỗ, Tía tô, lá Hồng bì với lượng
vừa đủ đun sôi rửa.
6.
Sỏi thận: dùng hạt Dứa gỗ 10g, hạt Chuối hột 10g, Kim tiền
thảo 15g, củ Cỏ ống 10g, sắc nước uống ngày 1 thang (An Giang).
Nhân
dân còn dùng rễ chùm của cây Dứa gỗ sao lên sắc uống trị
chứng mất ngủ, nhức đầu.
|
|