|
Cam
thảo dây
Cam
thảo dây, Cườm thảo, Dây chi chi, Dây cườm cườm, Tương tư đằng
- Abrus precatorius L., thuộc họ
Đậu - Fabaceae.
Mô
tả: Cây leo với cành nhánh
nhiều và mảnh. Lá kép lông chim chẵn gồm 9-11 cặp lá chét thuôn,
tù, màu lục sẫm; cuống lá chét và cuống lá kép đều có đốt.
Hoa nhiều, nhỏ, màu hồng hay tím nhạt, có tràng hoa dạng bướm,
xếp thành chuỳ ở nách lá. Quả đậu dẹt, có 3-7 hạt. Hạt hình
trứng, nhẵn bóng, to bằng hạt đậu gạo, màu đỏ chói, có một
đốm đen rộng bao quanh tễ.
Mùa
hoa quả tháng 3-6 trở đi đến tháng 9-10.
Bộ
phận dùng: Dây mang lá, rễ,
hạt - Ramulus, Radix et Semen Abri
Precatorii.
Nơi
sống và thu hái: Loài cây liên
nhiệt đới, mọc hoang trong các rừng còi, rừng thưa vùng núi
thấp đến trung du và đồng bằng. Ở nước ta, thường gặp
nhiều ở các tỉnh miền Trung từ Thừa Thiên - Huế đến Ninh
Thuận. Cũng thường được trồng làm cảnh và làm thuốc ở
nhiều nơi. Trồng được 3 tháng đã có thể thu hoạch dây lá.
Cắt các đoạn dây mang lá, quấn lại thành bó rồi phơi khô. Thu
hái rễ vào mùa xuân-hè; thu hoạch quả vào mùa thu rồi phơi khô,
đập lấy hạt.
Thành
phần hóa học: Lá, rễ Cam
thảo dây chứa một chất ngọt tương tự glycyrrhizin của Cam
thảo, nhưng vị khó chịu và đắng. Hạt chứa một albumin độc
(toxalbumin) là abrin có cấu trúc và tính chất gần với ricin trong
hạt thầu dầu; 1/2mg abrin đã là liều tử cho người trưởng thành;
còn có các chất khác như L. abrin, abralin, precatorin, hemaglutinin,
trigonellin. N-dimethyl tryptophan methyl este, hypaphorin, một số sterol như
stigmasterol, brassicasterol, men ureaza. Vỏ hạt chứa chất màu là
abarnin (anthocyan monoglycosid).
Tính
vị, tác dụng: Dây lá, rễ
Cam thảo dây có vị ngọt, hơi đắng, tính mát, có tác dụng tiêu
viêm, lợi tiểu. Hạt có vị đắng, rất độc, có tác dụng thông
cửu khiếu, sát trùng, tiêu viêm. Abrin là một albumin độc; khi vào
cơ thể, nó sẽ tạo ra một kháng thể gây vón hồng cầu dễ dàng,
làm phù tẩy kết mạc và gây hại tới giác mạc một cách vĩnh
viễn.
Công
dụng, chỉ định và phối hợp:
Người ta thường dùng dây lá Cam thảo dây để điều hoà các
vị thuốc khác, dùng chữa ho, giải cảm, trị hoàng đản do viêm
gan siêu vi trùng. Liều dùng 8-16g, sắc uống. Có thể dùng thay Cam
thảo bắc. Thường phối hợp với các vị thuốc khác. Người ta
còn dùng lá Cam thảo dây nhai với muối và nuốt nước để chữa
chứng đánh trống ngực. Hạt chỉ dùng ngoài để sát trùng, tiêu
viêm, làm mụn nhọt chóng vỡ mủ (giã nhỏ đắp); tốt nhất là
trị vú sưng đau do tắc tia sữa: người ta lấy một lượng vừa
đủ, giã nát, nghiền thành bột, trộn với dầu mè bôi và đắp
ngoài.
ở
Đông Phi, có nơi dùng lá trị rắn độc cắn. Ở Inđônêxia, người
ta dùng dây lá làm thuốc chữa đau bụng, trị bệnh spru (ỉa
chảy vùng nhiệt đới). Ở Philippin, lá và rễ sắc chữa ho,
chữa đau mắt hột mạn tính. Rễ dùng thay Cam thảo vì có tính làm
dịu. Hạt dùng để tẩy nhưng độc nên không dùng nhiều. Ở Ấn
Độ, người ta dùng hạt làm thuốc tẩy, gây nôn và kích dục, dùng
trong những rối loạn thần kinh và ngộ độc của súc vật. Người
ta cũng dùng bột làm thuốc đạn gây sẩy thai. Rễ cũng dùng gây
nôn và chống độc.
Ghi
chú: Khi bị ngộ độc hạt
Cam thảo dây, có các triệu chứng như nôn mửa, viêm dạ dày -
tiểu trường, co giật, xuất huyết nhiều, giảm huyết áp, dùng
50-60g Cam thảo sắc uống, hoặc hoà thêm bột Đậu xanh nghiền
sống, uống nhiều càng tốt.
|
|