|
Củ
đậu
Củ
đậu, Củ sắn - Pachyrrhizus erosus
(L.), thuộc họ Đậu - Fabaceae.
Mô tả: Cây thảo có thân cuốn, có rễ nạc
dạng con quay. Lá kép có 3 lá chét hình thoi, mỏng, nhẵn, có mũi
nhọn ngắn, các lá chét không cân. Hoa màu mận hay tím nhạt, xếp
thành chùm dài ở nách. Quả dài, hơi có lông, không cuống, có
nhiều rãnh ngang sâu ngăn ra nhiều ô. Hạt 4-9, dạng lăng kính, màu
hung.
Ra
hoa vào tháng 4-5; có quả tháng 11-12.
Bộ phận dùng: Củ, hạt và lá - Radix, Semen et Folium Pachyrrhizi Erosi.
Nơi sống và thu hái: Gốc ở Mỹ châu
nhiệt đới, được trồng khắp Viễn đông để lấy củ ăn
sống hay xào nấu làm rau ăn. Trồng bằng hạt; thời gian từ lúc
hạt nẩy mầm đến khi thu hoạch củ là 110-120 ngày.
Thành phần hoá học: Củ đậu chứa 1% protid,
6% glucid, 6mg% vitamin C. Lá chứa pachyrrhizid. Hạt chứa rotenon và
pachyrrhizid, pachyrrihizon, eroson và 2 saponin trong hạt đều là những
chất độc.
Tính vị, tác dụng: Củ đậu có vị ngọt
nhạt, tính mát, ăn sống thì giải khát, nấu ăn thì bổ ích tràng
vị. Hạt rất độc, lá cũng có độc đối với động vật.
Công
dụng, chỉ định và phối hợp:
Củ đậu dùng xào với thịt, tôm, tép, nấu thay rau ăn ngon
miệng. Người ta còn dùng Củ đậu kho với thịt, hầm thịt, làm
nộm, làm nhân bánh đa nem, lẫn với thịt nạc băm, thịt cua
biển, thịt tôm tươi và mộc nhĩ, bún tàu làm nhân bánh xèo.
Phụ nữ thường dùng Củ đậu tươi thái lát, xoa hoặc ép lấy nước
để bôi mặt cho mịn da, khỏi nứt nẻ. Củ đậu khô có thể tán
bột dùng làm phấn bôi mặt, xoa rôm sảy. Hạt cây Củ đậu chỉ
dùng giã nhỏ nấu với dầu vừng để nguội bôi chữa ghẻ. Có
thể phối hợp với quả Bồ hòn và hạt Máu chó. Lá cây chỉ dùng
chữa bệnh ngoài da chứ không được uống trong. Ở Ấn Độ, người
ta dùng hạt giã nhỏ cho vào nước để duốc cá. Hạt tán bột đắp
trị bệnh ngoài da cũng như chứng nổi rôm; có khi chúng được dùng
như thuốc nhuận tràng và trị giun.
|
|