|
Riềng
Riềng,
Riềng thuốc - Alpinia officinarum Hance, thuộc họ Gừng - Zingiberaceae.
Mô
tả: Cây thảo sống lâu, mọc
thẳng cao 1-1,5m, thân rễ mọc bò ngang, chia thành nhiều đốt không
đều nhau, màu đỏ nâu, phủ nhiều vẩy. Lá không cuống, có bẹ
hình mác, mọc thành 2 dãy. Hoa màu trắng, tập hợp thành chùm thưa
ở ngọn. Cánh môi to, có vân đỏ. Quả hình cầu, có lông, hạt có
áo hạt.
Mùa
hoa quả tháng 5-9 và kéo dài đến hết năm.
Bộ
phận dùng: Thân rễ - Rhizoma
Alpiniae, thường gọi là Cao lương khương
Nơi
sống và thu hái: Loài phân
bố ở Việt Nam, thường gặp ở Trung Quốc. Ở nước ta, cây
mọc hoang và được trồng lấy thân rễ làm gia vị và làm
thuốc. Trồng bằng đoạn thân rễ vào mùa xuân, được 1 năm, có
thể thu hoạch. Thu hái thân rễ cuối mùa hè, chỉ chọn củ già,
cắt bỏ rễ con, rửa sạch, cắt thành từng đoạn 4-6cm, phơi khô
hoặc đồ qua rồi mới phơi.
Thành
phần hoá học: Thân rễ chứa
tinh dầu mà thành phần chủ yếu là cineol và metylcinnamit. Còn có
chất dầu vị cay là galangol và các dẫn chất của flavon ở dạng
tinh thể là galangin, alpinin và kaempferin.
Tính
vị, tác dụng: Vị cay thơm, tính ấm; có tác dụng lợi tiêu hóa, giảm đau,
chống lạnh.
Công
dụng, chỉ định và phối hợp:
Thường được dùng trị: 1. Ðau thượng vị, nôn mửa, tiêu hóa kém;
2. Loét dạ dày và tá tràng, đau dạ dày mạn tính; 3. Viêm dạ dày
- ruột cấp; 4. Sốt rét, có báng. Dùng ngoài trị lang ben. Liều dùng
3-10g, dạng thuốc sắc. Dùng ngoài giã cây tươi đắp.
Ðơn
thuốc:
1.
Ðau thượng vị, loét tá tràng, đau dạ dày mạn tính: Riềng, Hương
phụ mỗi vị 60g, tán nhỏ thành bột, luyện viên, ngày dùng 9g,
chia 3 lần.
2.
Nôn mửa: Riềng, Bán hạ, Gừng, mỗi vị 10g, sắc nước uống.
Nếu nôn mửa có đau bụng, dùng 8g Riềng với 1 quả Táo sắc nước
uống 2-3 lần trong ngày.
3.
Sốt rét, kém tiêu hóa: Riềng tẩm dầu vừng sao 40g. Gừng khô nướng
40g tán nhỏ, hòa mật lợn làm hoàn thành viên bằng hạt ngô, dùng
uống ngày 15-20 viên.
4.
Lang ben: Riềng giã nát ngâm rượu hoặc giấm bôi.
|
|