|
Hương
bài
Hương
bài, Cỏ hương bài - Vetiveria
zizanioides (L.) Nash ex Small., thuộc họ Lúa – Poaceae.
Mô tả: Cây thảo sống nhiều năm, thân rễ dày
mang rễ dài, có mùi thơm. Thân cao đến 2m, mọc thành bụi đứng,
gốc lớn, nhiều đốt, nhẵn. Lá hình dải hẹp, nhọn đầu,
thẳng, cứng dài 40-90cm, nhẵn, mép ráp; bẹ lá dẹt, lưỡi bẹ
dạng gờ mỏng. Cụm hoa là chuỳ ở ngọn, thẳng, dài 20-30cm,
cuống chung lớn, phân nhánh nhiều; các nhánh xếp thành vòng, không
đều nhau, nhẵn, ráp, có đốt. Bông nhỏ hẹp, nhọn, màu tím
nhạt, có khi vàng nhạt; bông nhỏ không cuống lưỡng tính, bông
nhỏ có cuống là bông đực. Quả thóc hơi dẹt bên nhiều hay ít.
Bộ phận dùng: Rễ - Radix Vetiveriae.
Nơi sống và thu hái: Loài phần bố ở
nhiều nước nhiệt đới Phi châu và Á châu (Ấn Độ, Nam Trung
Quốc, tới Inđônêxia). Ở nước ta, cây mọc phổ biến trên các
đồi hoang khô, nơi nhiều nắng, trơ đất đá, xen lẫn với cây
bụi thấp. Cũng được trồng ở Thái Bình, trên đất cát dọc
bờ biển. Trồng vào tháng 2; thu hái chính vụ vào tháng 12, cũng
thường được thu hoạch quanh năm.
Thành phần hóa học: Rễ chứa tinh dầu tỷ
lệ thay đổi từ 0,1-0,3% cho tới 1-2% tuỳ xuất xứ, thường là
từ 0,5-1%. Tinh dầu chứa các terpen: 2 vetiven (2 và 3 vòng), alcol: 2
vetivenol (2 và 3 vòng), alcol methylic, aldehyd; furfurol; các acid
vetivenic-benzoic dưới dạng ether của vetivenol.
Tính vị, tác dụng: Rễ có vị đắng và thơm,
tính mát; có tác dụng hạ nhiệt, làm ra mồ hôi, kích thích, lợi
tiêu hoá, gây trung tiện, lợi tiểu và điều kinh. Tinh dầu mát và
dễ chịu có mùi của Hoa tím, rất bền nếu là tinh dầu nặng.
Công dụng, chỉ định và phối hợp:
Dân gian thường dùng rễ Hương bài nấu nước gội đầu cho thơm,
lại làm mượt tóc, cho lẫn vào tủ áo quần, tủ sách để có hương
thơm, chống sâu bọ (gián). Cũng thường dùng đốt thay trầm tạo
cảm giác nhẹ người. Dùng rễ nấu nước tắm trị được lở
ngứa, sài ghẻ. Thông thường người ta dùng rễ Hương bài làm
nguyên liệu cất lấy tinh dầu thơm, dùng trong hương liệu để
cố định được các tinh dầu khác dễ bay hơi, làm bột, làm kem,
làm xà phòng cao cấp.
Ở
Ấn Độ, người ta dùng rễ hãm uống với nhiều công dụng,
chữa cảm sốt, bệnh về đường tiêu hoá và còn dùng tán bột
đắp ngoài để giải nóng khi bị sốt, và dùng uống trong trị
bệnh về gan. Tinh dầu cũng được sử dụng để làm tăng trương
lực.
Ở
Malaixia, người ta dùng rễ Hương bài làm thuốc đắp lên bụng
phụ nữ sau khi đẻ.
|
|