|
Hồi
Hồi,
Đại hồi - lllicium verum Hook. f
et Thoms. thuộc họ Hồi - llliciaceae.
Mô tả: Cây nhỡ, cao 6-10m. Thân thẳng to, cành
thẳng nhẵn, lúc non màu lục nhạt sau chuyển sang màu nâu xám. Lá
mọc so le, phiến lá nguyên, dày, cứng giòn, nhẵn bóng, dài 8-12cm,
rộng 3-4cm, hình mác hoặc trứng thuôn, hơi nhọn dần, mặt trên
xanh bóng hơn mặt dưới. Hoa mọc đơn độc ở nách lá, có khi
xếp 2-3 cái; cuống to và ngắn; 5 lá đài màu trắng có mép màu
hồng; 5-6 cánh hoa đều nhau màu hồng thẫm. Quả kép gồm 6-8 đại
(có khi hơn), xếp thành hình sao đường kính 2,5-3cm, lúc non màu
lục, khi già màu nâu sẫm, mỗi đài dài 10-15mm, có mũi nhọn
ngắn ở đầu. Hạt hình trứng, nhẫn bóng.
Hoa
tháng 3-5, quả tháng 6-9.
Bộ phận dùng: 1. Quả Hồi - Fructus Anisi Stellati, thường gọi là Bát giác hồi hương,
2. Tinh dầu Hồi - Oleum Anisi Stellati.
Nơi sống và thu hái: Hồi là loại cây
của vùng Đông Á, hiện có ở một số tỉnh phía Nam Trung quốc
(Quảng Tây, Quảng Đông) và các tỉnh Đông Bắc Việt Nam. Còn
được trồng ở Philippin và Jamaica. Ở nước ta, Hồi được
trồng phổ biến ở các huyện phía Bắc của tỉnh Lạng Sơn,
một số nơi ở Cao Bằng, và vài nơi khác ở Bắc Thái, Quảng
Ninh. Vào tháng 7-9 và 11-12, người ta thu hái quả chín, đem tách
quả ra từng mảnh bỏ hạt, rửa sạch, phơi trong mát cho khô. Khi
dùng tẩm rượu sao (cách giấy) hoặc tẩm nước muối sao qua (cách
giấy). Người ta thu hái quả Hồi đem về phơi nắng nhẹ cho khô
hẳn, rồi cất lấy tinh dầu. Cũng có thể cất từ quả tươi.
Thành phần hóa học: Quả hồi chứa nhiều
tinh dầu, nếu cất bằng phương pháp kéo hơi nước từ quả hồi
tươi thì đạt hàm lượng 3-3,5%, tinh dầu lỏng, không màu hoặc màu
vàng nhạt, có mùi thơm đặc biệt. Thành phần chủ yếu của tinh
dầu hồi là anethol (80-90%); ngoài ra còn có a-pinen,
d-pinen, l-phellandren, safrol, terpineol, limonen. Lá hồi cũng chứa tinh
dầu nhưng độ đông đặc hơi thấp hơn. Hạt hồi không mùi,
chỉ chứa dầu béo.
Tính vị, tác dụng: Hồi có vị cay, ngọt, mùi
thơm, tính ấm; có tác dụng trừ đàm, khai vị, kiện tỳ (kích thích
bộ máy tiêu hoá), tiêu thực, giảm co bóp trong dạ dày và ruột,
lợi sữa, trừ phong, giảm đau, sát trùng.
Công dụng, chỉ định và phối hợp:
Thường dùng trị nôn mửa và ỉa chảy, bụng đầy trướng, đau
ruột sán khí (đau xuyên bụng dưới lên). Còn dùng trị đái
nhiều, đái dầm, ngộ độc thịt cá, trị tay chân nhức mỏi. Ngày
dùng 4-8g dạng thuốc hãm, thuốc sắc, hoặc 1-4g quả dạng thuốc
bột. Người ta cũng dùng quả ngâm rượu làm thuốc xoa bóp ngoài
da. Lá Hồi dùng trị rắn cắn (nhai nuốt nước, lấy bã đắp).
Hồi còn được dùng làm rượu khai vị, làm thơm thuốc đánh răng
và gia vị. Tinh dầu Hồi cũng có tác dụng kích thích, làm dễ tiêu,
chống co giật, ức chế sự lên men ruột, gây trung tiện, long đờm
và lợi tiểu nhẹ, được dùng chữa đau bụng; là thành phần
của thuốc ngậm chữa ho và là thuốc xoa bóp chữa thấp khớp,
thuốc chữa đau tai, sát khuẩn, trị bệnh nấm da và ghẻ. Còn dùng
làm thuốc diệt rận, rệp và là thành phần của thuốc bơm trừ
sâu bọ cho gia súc.
Đơn thuốc:
1.
Cảm hàn, đau bụng thổ tả: Dùng Hồi hương tán bột uống mỗi
lần 2g với rượu, ngày uống 3,4 lần. Hoặc dùng tinh dầu Hồi
uống mỗi lần 4 giọt, ngày uống 3-4 lần.
2.
Hôi miệng, thở hôi: Dùng hoa Hồi nhai nuốt, mỗi ngày vài cánh.
3.
Đau lưng: Hồi (bỏ hạt) tẩm nước muối sao, tán nhỏ, mỗi lần
dùng 6-10g với rượu. Ngoài dùng lá Ngải cứu chườm nóng vào lưng.
4.
Chữa cổ trướng và thũng trướng mạn tính: Dùng Hồi hương 2g và
hạt Bìm bìm 8g, tán bột, chia làm 2-3 lần uống trong ngày. Uống
trong 3-4 ngày liền.
5.
Đại tiểu tiện không lợi: Hồi và Bìm bìm như trên tán bột
mỗi lần uống 4g với nước gừng.
Ghi chú: Tránh nhầm với loại
Hồi có quả độc, có tên là lllicium religiosum Sieb. et Zucc., có các
đại nhỏ hơn, không nhiều, có mũi nhọn rõ rệt ở đầu, mùi không
thơm vì anethol mà có mùi của long não Sasafras.
|
|